Thành phố Đà Nẵng

HỆ THỐNG TỔ CHỨC

Cổng thông tin Chính phủ
Văn bản pháp quy
Biểu mẫu

Liên kết

Thống kê truy cập

Lượt truy cập:2.801.369
Hôm qua:1.127
Hôm nay:1.080

Tìm kiếm thông tin

Tìm kiếm

Đăng nhập

Tên đăng nhập:
Mật khẩu:
Đăng nhập với vai trò


Đăng nhập

Giới thiệu sách, tác phẩm

Giá trị tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật”- Montesquieu

14:29 | 22/07/2020 7389

Giá trị tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật”- Montesquieu

 

                                                Người báo cáo: ThS. Nguyễn Đoàn Đoan Trang

                                                              Khoa Nhà nước và pháp luật

 

ĐẶT VẤN ĐỀ

       Trong khoa học luật hiện đại trên thế giới những người học Luật thường bắt đầu bằng việc đọc bộ đôi tác phẩm kinh điển: “Khế ước xã hội” của Rousseau và “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu; Tư tưởng của hai tác giả được coi là bộ đôi khai sáng về quan điểm pháp lý, mở đường cho tư duy xã hội Pháp đi tới cuộc cách mạng tư sản 1789, bởi lẽ các tác giả của nó đã khiến cho dân pháp khinh sợ sự độc tài, đồng thời khích lệ họ vươn tới khát vọng tự do, đạo đức và bình đẳng hướng tới xây dựng một xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. Ngày nay tư tưởng của các ông cùng những quan đểm lập pháp hiện đại phương Tây (Châu Âu và Châu Mỹ) vẫn đang dẫn dắt hàng tỷ người hàng trăm dân tộc tiến bước vào khát vọng tự do, dân chủ và thiêng liêng quyền của con người. Nhiều quan điểm trong tác phẩm này đã trở thành những nguyên tắc pháp lý chi phối sâu sắc đến sự phát triển của nhà nước và pháp luật hiện đại.

       Nếu như trong Bàn về chính quyền, Cicero đặt ra câu hỏi “nghĩa vụ của một con người công bằng và tốt đẹp là tuân thủ luật lệ. Thế nhưng, anh ta phải tuân thủ những luật nào?” thì 18 thế kỷ sau, người hậu bối của ông, Montesquieu đã dành gần 20 năm nghiên cứu và đưa ra những lý luận triết học chính trị về xã hội học, luật học để trả lời câu hỏi trên.

      Hơn hai thế kỷ qua, Bàn về tinh thần pháp luật của ông luôn được các nhà tư tưởng, các chính khách và giới nghiên cứu lý luận trên toàn thế giới sử dụng như một tài liệu tham khảo bổ ích, có giá trị gợi mở cho việc xây dựng và hoàn thiện lý luận về nhà nước pháp quyền.

I. Giới thiệu tác giả: Montesquieu là ai?

Montesquieu (1689-1755), nhà tư tưởng chính trị, nhà triết học Khai sáng người Pháp. Ông được biết đến với các tác phẩm hướng tới tinh thần đấu tranh, xây dựng một xã hội không còn áp bức, bất công; một xã hội đem lại tự do, hòa bình cho toàn nhân loại.

Khi Montesquieu lên 7 tui thì m ông mt. Ông học Luật tại thành phố Bordeaux.

Montesquieu chu nh hưng nhiu ca ngưi chú rut – Giăng đơ Sơcôngđơ, ngưi đã tng là Ch tch Ngh vin Boócđô.

Năm 1714, Montesquieu 25 tuổi vào làm vic ti Vên Boócđô, 26 tuổi ông kết hôn và hai năm sau, ông thừa kế ông chú tr thành Nam tưc De Montesquieu - Ch tch Ngh vin Boócđô.

Vào năm 1721, Montesquieu lần đầu tiên được biết đến với tác phẩm đầu tay Những bức thư Ba Tư, tác phẩm được thừa nhận là đã gây chấn động dư luận không riêng gì ở Pháp, mà cả ở châu Âu. Đây là một trong ba tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tạo của Montesquieu và là tác phẩm được công chúng Pháp nhiệt liệt hoan nghênh ngay khi mới ra đời.

27 năm sau, Tháng 10 năm 1748, Montesquieu cho ra đời tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật. Do đã phải làm việc căng thẳng để nghiên cứu, soạn thảo cuốn sách này nên sức khỏe của ông bị suy sụp, nhất là thị lực.

Với tất cả những cống hiến lý luận của mình, Montesquieu xứng đáng được tôn vinh là một trong những nhà tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng nhân loại thế kỷ XVIII, là nhà triết học Khai sáng Pháp nổi tiếng với tư tưởng đề cao "tinh thần pháp luật” luôn thể hiện ý chí và khát vọng xây dựng một xã hội mới mà ở đó, không còn áp bức, bất công, một xã hội có khả năng đem lại tự do cho mọi người, hoà bình cho nhân loại.

II. Tác phẩm

2.1. Giới thiệu tác phẩm

 Tên tuổi của Montesquieu đặc biệt gắn liền với “bàn về tinh thần pháp luật”, một ngọn đuốc trong khoa học xã hội, đã thắp lên thì không bao giờ tắt.

Bàn về tinh thần pháp luật là một trong những tác phẩm vĩ đại trong lịch sử triết học chính trị và trong lịch sử luật học. Mục đích cuốn sách, như chính tác giả đã nêu, là: Trình bày những nguyên nhân quyết định nền pháp lý cho mỗi quốc gia; trình bày sự phù hợp cần thiết giữa luật lệ và chế độ cai trị của một nước; trình bày những quan hệ giữa các luật lệ với nhau.

Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu cùng với Bàn về Khế ước xã hội của Rousseau được coi là bộ đôi tác phẩm “xây dựng lý thuyết về xã hội công dân và nhà nước pháp quyền, dẫn tới cuộc Đại cách mạng Pháp 1789”. Những giá trị kinh điển của hai tác phẩm cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và được coi như những “tinh hoa tư tưởng của nhân loại”.

* Tuy nhiên quá trình ra đời của tác phẩm gặp rất nhiều trắc trở:

Montesquieu đã dành 20 năm để nghiên cứu tác phẩm này. Tuy nhiên từ 1741 - 1747 là giai đoạn ông tập trung toàn bộ thời gian, dành toàn tâm để viết tác phẩm.

Năm 1748 Cuốn tinh thần pháp luật đã được xuất bản ẩn danh để tránh sự kiểm duyệt

1749: tác phẩm bị công kích, tạp chí Tin giáo hội coi tác giả thuộc phái thần học.

1750: viết tác phẩm luận chiến “Bảo vệ tinh thần pháp luật

29/11/1751 Chính phủ Pháp ban hành lệnh cấm lưu hành sách

Năm 1752, sách “Tinh thần pháp luật” bị cơ quan kiểm duyệt của toàn thánh Rome phê bình một cách ôn hoà. Điều này khiến Montesquieu lo nghĩ nhiều vào những năm cuối đời và ông chắc chắn đã có sửa chữa lại nguyên cảo của mình.

1757, tác phẩm được tái bản (sau khi Montesquieu qua đời), tác phẩm lúc này đã khiến giáo hội được hài lòng.

Trong giới triết gia người ta hoan nghênh nhiệt liệt tác phẩm của Montesquieu. Chỉ có các giới thuộc Giáo hội là phần nhiều chỉ trích sách của ông. “Bàn v tinh thn pháp lut” th hin thái độ hết sc căm ghét ca Montesquieu đối vi chính th chuyên chế và ch trương thay thế nó bng mt hình thc nhà nước mi để cho các công dân Pháp lúc by gi có li thoát ra khi s đàn áp, cưỡng bc ca chế độ độc tài, chuyên chế.

Người ta bài bác mạnh nhất là những chương trong cuốn sách có vẻ muốn minh chứng rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, tuỳ thuộc phong tục, khí hậu, tình trạng chính trị.

Ở tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, Montesquieu không nghiên cứu luật pháp như một nhà luật học thuần tuý, mà nghiên cứu cái hồn, cái tinh thần của pháp luật. Ông muốn khám phá cái trật tự cái quy luật trong mớ hỗn độn các luật pháp ở tất cả các dân tộc và ở mọi thời đại. Đây là tác phẩm mang tính triết học sâu sắc, trong đó luật pháp được giải thích từ nhiều khía cạnh khác nhau.

Ở Việt Nam, tác phẩm được dịch lần đầu bởi Trịnh Xuân Ngạn, tuy nhiên chỉ được dịch giới hạn 18 Quyển, 38 chương. Đến 2004, Hoàng Thanh Đạm mới chuyển ngữ đầy đủ 31 Quyển, 168 chương của quyển sách này. Và sách được xuất bản vào năm 2006.

2.2. Lời bình về tác phẩm

Để hiểu cặn kẽ bàn về tinh thần pháp luật ở nhiều khía cạnh khác nhau, sẽ thật là thiếu sót nếu bỏ qua những bình luận xoay quanh tác phẩm này:

Tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật sẽ là một công trình bất tử nói lên tài năng và đức hạnh của tác giả. Nó đánh dấu một giai đoạn không thể nào quên của lịch sử triết học trong quá trình tiến bộ của lý trí giữa thế kỷ này” - J. R. d’Alembert.

Đó [Bàn về tinh thần pháp luật] là cuốn sách chính xác, sâu sắc, hùng biện. Đó là một trong những sản phẩm triết học có ảnh hưởng lâu dài đến vận mệnh loài người” - M. J. Chénier.

2.3. Bố cục tác phẩm

Người ta tranh luận rất nhiều về cách bố cục sách “tinh thần pháp luật”. Có học giả cho rằng đó là bố cục hợp với một lý luận cực kỳ chặt chẽ. Tuy nhiên có nhà phê bình thì cho rằng, Montesquieu viết không theo một bố cục nào cả. Được đánh giá là viết không có phương pháp, cách sắp xếp các Quyển, Chương không thật sự logic (có những quyển có rất nhiều chương, có quyển chỉ có 1 chương (quyển V)); Điều này khiến người đọc khó nắm bắt được mạch của tác phẩm nếu không đọc một cách cẩn thận, chăm chú. Chỉ khi đi vào đọc từ câu, từng chữ, nghiền ngẫm, ta dần cảm nhận được cái hay, cái thấu đáo, cái tinh thần của tác phẩm, đạo đức của tác giả khi viết tác phẩm này.

Có thể chia tác phẩm phẩm thành 5 phần:

  1. Phần 1: Quyển I –X: Montesquieu bàn về luật của tự nhiên, luật con người, những nguyên nhân chính trị quyết định luật pháp; ông cũng định nghĩa 3 hình thức chính thể (quyển II) và những nguyên tắc của nó (quyển III);  các yếu tố ảnh hưởng đến sự tồn vong của 3 chính thể: giáo dục (quyển IV) , các luật có liên quan, hệ thống an ninh (quyển IX), hệ thống phòng thủ (quyển X) và sự sa đoạ của 3 chính thể (quyển VIII)
  2. Phần 2: Quyển XI – XIII: ông tiếp tục nghiên cứu những yếu tố chính trị bằng cách phân tích trước hết những luật lệ nào cần thiết trong 3 loại chính thể; bàn về tự do chính trị chính (tam quyền phân lập - Quyển XI: tự do chính trị trong mối quan hệ với hiến pháp) và tự do công dân (Quyển XII: tự do chính trị trong mối quan hệ với công dân)
  3. Phần 3: Quyển XIV – XIX: Montesquieu chứng minh những yếu tố có tính chất vật chất (khí hậu, đất đai) hay tinh thần (tập quán, phong tục của một nước) tham gia vào việc tạo thành luật pháp
  4. Phần 4: Từ quyển XXI - quyển XXV: mối quan hệ của pháp luật với thương mại, với việc sử dụng tiền tệ, với dân số, với tôn giáo các nước
  5. Phần 5: Quyển XXVI – XXXI: bàn về cơ sở xây dựng nên pháp luật và bàn về nước Pháp

Với một tác phẩm đồ sộ, không thể trình bày dàn trải hết các nội dung được, chỉ xin phân tích những phần có giá trị nhất của tác phẩm, còn lại các phần khác chỉ xin được điểm qua.

III. Nội dung tác phẩm

1. Mở đầu

Quyển I, tác giả phân tích luật của con người trong tương quan với luật thiên nhiên: “Mọi vật đều có luật của nó. Từ thế giới thần linh đến thế giới vật chất, từ những trí tuệ siêu việt đến cho đến loài vật và loài người đều có luật của nó… Không có quy luật thì thế giới không tồn tại… Trước khi con người hình thành xã hội thì đã có những quan hệ về sự công bằng tất yếu rồi” (Montesquieu. p. 42).

Trong đó “luật tự nhiên đầu tiên của con người là hòa bình”, thứ hai là quy luật “tự nuôi sống”, thứ ba là “lời cầu khẩn tự nhiên mà nam nữ mong muốn bên nhau”, thứ tư là “mong muốn sống thành xã hội” (Montesquieu. p.44-45).

Khi con người đã sống thành xã hội và có sự tương quan lẫn nhau sẽ đòi hỏi phải có luật dân sự, luật chính trị và sau đó là công pháp quốc tế khi các dân tộc tương tác với nhau.

Con người sinh ra để sinh sống trong xã hội, nhưng có thể quên mất cả đồng loại nên các nhà lập pháp phải nhắc nhở họ nhớ đến nghĩa vụ bằng các luật chính trị và dân sự.” (Montesquieu. p.42). Những luật do con người đặt ra phải dựa trên nguyên tắc đúng đắn của luật thiên nhiên: “Mỗi một dân tộc trong hòa bình phải làm điều tốt nhất; trong chiến tranh phải cố hết sức làm ít điều xấu nhất” (Montesquieu. p.45).

2. Dẫn dắt người đọc tìm hiểu các luật thực tiễn

2.1. Tiếp đến, Trong Quyển II với tựa đề: “Pháp luật rút trực tiếp từ trong bản chất của chính trị”, tác giả phân tích về ba phương thức cai trị khác nhau: dân chủ, quân chủ chuyên chế.

Ông đi sâu phân tích 3 chính thể ở những khía cạnh sau:

  • Không chỉ dừng lại với những khái niệm (Quyển II),
  • Luật cơ bản trong mỗi chính thể
  • Nguyên tắc (quyển III),
  • Luật giáo dục (quyển IV)
  • Các luật liên quan (quyển V) và
  • Những sự sa đọa tương ứng với từng chính thể (quyển VIII).

Ông định nghĩa:

Chính thể dân chủ là chính thể mà dân chúng hay một bộ phận dân chúng có quyền lực tối cao. Chính thể quân chủ thì chỉ một người cai trị, nhưng cai trị bằng luật pháp được thiết lập rõ ràng. Chính thể chuyên chế thì trái lại, chỉ một người cai trị, mà không có luật lệ gì hết, chỉ theo ý chí và sở thích của hắn ta thôi

Trong đó, chính thể dân chủ có được khi quyền lực tối cao nằm trong tay toàn thể dân chúng, khi đó “có thể coi dân chúng như vua, mà cũng có thể coi là thần dân” (Montesquieu, p.48). Nhưng khi quyền lực nằm trong tay một bộ phận dân chúng, nó lại là chế độ quý tộc. Khi nhà nước chỉ do một người cai trị, đó là nhà nước quân chủ. Và khi người cai trị đó thể hiện rằng mình là tất cả, nắm mọi quyền lực, đó là nhà nước chuyên chế.

2.2. Các luật cơ bản trong mỗi chính thể:

- Chính thể dân chủ

Bàn về chính thể dân chủ, Montesquieu dựa vào tiền lệ trong xã hội cổ đại Hy Lạp và Rome. Ông viết: “Dân chúng rất giỏi khi họ chọn người để giao cho một phần quyền lực của mình (...). Dân biết rõ ai là người đã đánh thắng nhiều trận, ai là quan toà không nhận hối lộ và phán xử công minh, ai là người đã làm nên giàu có một cách chính đáng, để bầu họ và Nghị viện (...). Đó là điều dân chúng học được nơi quảng trường một cách sâu sắc mà ông vua không thể học được nơi cung điện”.

Dân đủ trình độ để cân nhắc nên bầu chọn người nọ hay người kia, chứ không phải ai cũng đủ trình độ để tự mình quản lý công việc, chính vì vậy họ cần sự hướng dẫn của một hội đồng hay một nghị viện.

Dân là “vua” bởi họ được thể hiện ý chí của mình bằng các cuộc đầu phiếu. Dân chúng có quyền lực tối cao phải tự mình làm lấy những điều có thể làm tốt được, còn những điều mà dân chúng không thể làm tốt được thì phải giao cho các vị bộ trưởng thừa hành. Ông còn nói thêm: “các vị bộ trưởng nếu không do dân cử thì không phải là của dân. Châm ngôn cơ bản của chính thể dân chủ là: dân bầu ra các vị bộ trưởng, tức bầu ra người quan chấp chính để cai trị mình.

Các luật quy định quyền đầu phiếu là luật định cơ bản trong chính thể dân chủ

Phân chia luật về quyền bầu cử, ứng cử (ai được bầu cử, ai được ứng cử) là luật cơ bản thứ hai

Và Luật về cách bầu cử (bầu cử công khai hay bí mật) là luật cơ bản thứ 3 mà Montesquieu nhắc đến.

- Các luật liên quan đến bản chất nhà nước quý tộc

Ở đây người ta không tổ chức đầu phiếu vì nó trở ngại

“Trong chế độ quý tộc, quyền lực tối cao nằm trong tay một số người. Chính họ làm ra luật và chấp hành luật”

- Các luật liên quan đến bản chất nhà nước quân chủ

Không có gì đáng gọi là “luật cơ bản”. Ở đây ông vua là nguồn gốc mọi quyền lực chính trị và dân sự

- Các luật liên quan đến bản chất nhà nước chuyên chế

“Trong một nhà nước chuyên chế, việc đặt chức tể tướng là một luật cơ bản”. Tể tướng ban đầu có quyền lực như vua.

2.3. Bàn về nguyên tắc trong 3 chính thể

Đọc tác phẩm ta sẽ nhận thấy, với Montesquieu mỗi chính thể có những nguyên tắc nhất định của nó và mọi hành động trong chính thể phải xoay quanh những nguyên tắc này để đảm bảo sự tồn vong của chính thể

Bàn về chính thể dân chủ

Tác giả vạch ra nguyên tắc của chính thể dân chủ là đạo đức chính trị với định nghĩa rõ ràng: “Đạo đức chính trị là tình yêu luật pháp và tình yêu tổ quốc. Tình yêu ấy đòi hỏi luôn luôn đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Ở đây, vận mệnh của chính thể được giao cho mỗi công dân”.

Để sáng tỏ thêm ông giải thích: “ Đạo đức trong chính thể cộng hoà là lòng yêu nền cộng hoà. Đó là tình cảm chứ không chỉ là chuỗi kiến thức. Người kém cỏi cũng như người giỏi giang nhất đều có thể có được tình cảm ấy”. Lòng yêu nền cộng hoà chính là lòng yêu dân chủ, mà yêu dân chủ là yêu bình đẳng, không những không yêu vì quyền lợi mà yêu cả vì nghĩa vụ. Lòng yêu dân chủ còn là lòng yêu cuộc sống thanh đạm. Bởi vì do lòng yêu bình đẳng, người ta chỉ có một tham vọng duy nhất là được giúp ích tổ quốc nhiều hơn người khác, cho nên họ không thích lối sống xa hoa.

          Tuy vậy, Montesquieu phân tích thêm: “Thật khó mà thiết lập bình đẳng một cách tuyệt đối nên cần có một cách định mức tương đối để giảm bớt sự chênh lệch, như yêu cầu người giàu đóng góp nhiều hơn cho người nghèo và có chính sách nâng đỡ người nghèo (...). Ai cần có việc làm để không bị nghèo khổ quá thì không được lười biếng trong công việc”. Bàn về đức tính thanh đạm trong chính thể dân chủ, Montesquieu thừa nhận một số công dân trở nên giàu có là điều hợp lý, nhưng cần phải đặt họ vào một địa vị khiêm tốn để họ cũng phải làm việc.

Bàn về chính thể quân chủ, trước hết, Montesquieu khẳng định nguyên tắc của chính thể này là danh diện (danh dự và thể diện). Vì trong chế độ quân chủ ắt phải có những đặc quyền, những đẳng cấp và nguồn gốc quý tộc; cho nên đòi hỏi phải có sự ưu đãi, phải khác người, phải hơn người.

          Danh diện trong nhà nước quân chủ cũng giống như lực hấp dẫn và lực ly tâm trong vũ trụ, nó làm cho mọi bộ phận trong cơ thể chính trị lay chuyển, liên kết lại trong hành động, hướng về các lợi ích của đất nước và tin rằng như thế sẽ có lợi cho cá nhân.

Bàn về chính thể chuyên chế

          Montesquieu tỏ thái độ căm ghét, phỉ báng và chế nhạo bằng lời định nghĩa vắn tắt như: ông vua chuyên chế là “một con người mà cả năm giác quan luôn luôn nói rằng ông ta là tất cả và mọi người không là cái gì hết (...). Nếu ông giao việc cho nhiều người thì người nào cũng chạy chọt để được làm tên đầy tớ hạng nhất của ông ta.

Như vậy thì nguyên tắc chính thể chuyên chế phải là sự sợ hãi. Người ta phải lấy sự sợ hãi để đánh bạt lòng can đảm, dập tắt mọi danh diện và tham vọng nhỏ nhất

2.4. Bàn về giáo dục trong 3 chính thể (Được đề cập ở Quyển 3 với tựa là: “Luật về giáo dục phải tương ứng với nguyên tắc của chế độ”)

Có thể nhận thấy với Montesquieu, giáo dục là điều quan trọng để hình thành nên đạo đức chính trị của một cá nhân. Ông lập luận như thế này: “Các điều luật về giáo dục là những điều tiếp nhận đầu tiên của chúng ta. Vì giáo dục là chuẩn bị cho chúng ta làm người công dân, và khiến cho mỗi gia đình riêng lẻ cũng phải được cai quản theo kế hoạch của “đại gia đình” toàn dân

          - Việc giáo dục trong chính thể quân chủ chú trọng ba điều: “Đặt vào đức hạnh ý niệm về sự cao quý, đặt vào các phong tục ý niệm về sự thật thà, đặt vào các cử chỉ ý niệm về sự lễ độ”. Ở đây, người ta đánh giá các hành động không phải ở điểm tốt mà là ở điểm đẹp, không phải ở sự đúng đắn mà ở sự cao cả, không phải ở chỗ hợp lý mà ở chỗ phi thường. Trong chính thể phong kiến, người ta không thể chê bai sự nịnh hót nói chung, mà chỉ chê bai nịnh hót khi nó biểu thị tính cách hèn hạ, hoặc không dính với ý đồ mưu nghiệp lớn. Người ta cư xử lễ độ chỉ để tỏ ra hơn người. Vua là cao cả thì mọi người phải nhỏ bé lại. Các quan lớn phải từ bỏ sự oai vệ của mình trước mặt vua. Mức độ oai vệ của một ông quan tuỳ thuộc vào vị trí ông ta ở gần hay xa vua. Người ta tỏ ra tế nhị để biểu hiện sự giàu sang, tỏ ra chán chường lạc thú để biểu thị mình đã hưởng quá nhiều.

Ở đây, Danh diện có những quy tắc tối cao mà nền giáo dục phải thích ứng với nó:

  • Nguời ta được giáo dục phải nghĩ đến vận mệnh chung, Vì sự nghiệp chung của nhà vua không tính đến đời sống của mình
  • Quy tắc 2: khi được đặt vào 1 địa vị nào (chức vụ) thì không được hành động dưới tầm địa vị đó
  • Quy tắc 3: điều gì danh diện cấm đoán hay đòi hỏi thì coi hơn cả luật pháp cấm đoán và cần thiết hơn cả điều luật bắt làm

          Như vậy trong nền quân chủ đúng đắn cũng có cái hay: các sắc dụ của nhà vua phải dựa theo hiến pháp. Nhà nước được củng cố, hiến pháp khó lung lay. Nhân cách người cầm quyền là khá ổn định

- Với nguyên tắc đó, việc giáo dục trong chính thể chuyên chế chỉ quy vào một điểm là “đưa sự sợ hãi vào trái tim và đưa ít nhiều nguyên tắc tôn giáo vào đầu óc thần dân. Ti Vin Hàn lâm khoa hc Boócđô, ông cũng đã tng trình bày mt lun văn v đề tài tôn giáo ca người La Mã. Trong lun văn đó, ông đã chng minh rng, “tôn giáo là do các vua chúa và quý tc La Mã bày đặt ra để làm ch da cho quyn lc ca h và tăng cường áp bc nhân dân”

Muốn có được sự phục tùng tuyệt đối, người ta cần sự ngu dốt của người thừa hành. Họ không cần phải hoài nghi, không cần phải lý giải. Giáo dục ở đây có thể coi là con số không. Nó bắt đầu bằng việc biến một thần dân xấu thành một nô lệ tốt.

          Trong chính thể chuyên chế; nếu có một người yêu nước chân chính thì anh ta “sẽ làm cho động cơ của chính thể phải dừng lại, nếu anh ta thất bại thì anh ta không thể tiếp tục tồn tại được nữa, còn nếu anh ta thành công thì anh sẽ làm cho mất hết; mất cả vua, mất cả nhà nước chuyên chế”

Montesquieu khái quát “ý niệm về chính thể chuyên chế” bằng 3 dòng vắn tắt Những người dã man ở Lousiana muốn ăn quả thì họ chặt cây từ gốc cho cây đổ xuống để hái quả. Chính thể chuyên chế là như rứa đó”(3 dòng này là toàn bộ chương 13 Quyển V)

- Giáo dục trong chính thể cộng hoà

Trong chính thể cộng hoà, nguời ta cần đến tất cả sức mạnh của giáo dục. Sự sợ hãi trong chính thể chuyên chế là do sự trừng phạt và đe doạ mà sinh ra nó. Danh diện trong chính thể quân chủ là do các dục vọng kích thích và nó cũng kích thích lại dục vọng (danh vọng). Nhưng đạo đức trong chính thể cộng hoà lại là sự đấu tranh với bản thân mình, đó là chuyện rất khó.

Ông định nghĩa đạo đức chính trị là tình yêu luật pháp và tình yêu tổ quốc. Tình yêu ấy đòi hỏi luôn luôn đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cán nhân. Muốn bảo vệ chính thể dân chủ thì phải yêu mến nó. Trong chính thể cộng hoà tất cả tuỳ thuộc ở tình yêu trong sáng nói trên, do đó mà phải quan tâm đến giáo dục. Muốn cho trẻ em có được tình yêu luật pháp và tổ quốc thì điều chắn chắn là các ông bố trong gia đình phải có tình yêu ấy đã.

Trong tác phẩm này, bản thân tôi cực kỳ tâm đắc với phần bàn về luật giáo dục, sau luật chính trị và dân sự, ông ngay lập tức bàn đến luật giáo dục, điều này cho thấy, từ rất sớm Montesquieu đã nhận thấy tầm quan trọng của giáo dục trong xây dựng nhân cách một con người, đặc biệt là giáo dục trong gia đình. Quan điểm này cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

2.5. Sự sa đoạ trong 3 chính thể

- Trong chính thể dân chủ: Ông vạch ra rằng chính thể dân chủ có thể bị sa đoạ trong nguyên tắc của nó; sa đoạ trong hai trường hợp: một là, dân chúng sa vào khung hướng bình đẳng cực đoan; tự do chủ nghĩa (libertinage), khiến cho việc chỉ huy cũng như tuân lệnh trở thành lộn xộn, phong tục tập quán, lòng yêu trật tự, rồi đến cả đạo đức cũng không còn nữa. Trường hợp thứ hai là người cai trị đánh mất tư tưởng bình đẳng, khi mà những kẻ được dân tin tưởng muốn che giấu sự sa đoạ của bản thân họ.

          - Sự sa đoạ trong chính thể quân chủ:

          Nhưng chính thể quân chủ cũng có thể bị sa đoạ từ trong nguyên tắc của nó. Tác giả lấy ví dụ thực tế trong các triều đại quân chủ Trung Hoa và khái quát thành lý luận chung: đó là lúc ông vua không tự ức chế mình, không chịu sự kiểm soát của hiến pháp, thích tự mình cai quản tất cả và ngay tức khắc. Tình trạng sa đoạ này biểu hiện như sau: ông vua biểu dương thế lực của mình bằng cách thay đổi trật tự tự nhiên của sự vật. Ông hành động và ra sắc dụ một cách độc đoán, say sưa với lạc thú ngông cuồng. Ông quy tất cả bào cho bản thân mình. Toàn bộ quốc gia, thủ đô, triều định chỉ là cá nhân ông. Vua không hiểu gì về tình cảm đối với dân chúng. Không cảm nhận sâu sắc về sự an ninh của quốc gia. Trong tình trạng đó vua quan không được nhân dân kính trọng nữa, họ phải dùng đến công cụ tồi tệ của chính quyền độc tài để bắt dân kính trọng. Cái gọi là danh diện trở thành bỉ ổi. Cái gọi là công bằng trở thành khắc nghiệt.

- Khi bàn về sự sa đoạ của nguyên tắc chính thể chuyên chế, Montesquieu cũng nói vắn tắt: “Nguyên tắc của chính thể chuyên chế thì bao giờ cũng không ngừng sa đoạ. Bản chất của nó là tàn bạo. Sự bạo tàn ấy luôn luôn tồn tại, mặc dầu có khi diụ bớt đôi chút”. Điều này có nghĩa là chính thể này trước sau cũng sẽ suy vong

Ngày nay, khi nói về chính thể, có 2 hình thức chính thể đang tồn tại:

Chính thể quân chủ (chính thể quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến) và chính thể cộng hoà (cộng hoà dân chủ và cộng hoà quý tộc).

3. Bàn về quan hệ giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

Ông dành phần lớn công trình tinh thần pháp luật để bàn về luật chính trị và luật dân sự, trong đó nổi bật lên phát kiến về quan hệ giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà người đương thời đều công nhận ông là Nhà khai sang đầu tiên xây dựng quan điểm tam quyền phân lập

Tìm hiểu vấn đề này, chúng ta nên nghiên cứu kỹ quyển XI: “các luật tạo ra tự do chính trị trong quan hệ với hiến pháp”

Các quyền này được phân lập và phụ thuộc vào nhau để ảnh hưởng sao cho không một quyền nào có thể vượt quá hai quyền còn lại và ba quyền này được giao cho ba cơ quan khác nhau nắm giữ. Đây là quan điểm cấp tiến vì đã hoàn toàn loại bỏ ba đẳng cấp thời bấy giờ là tăng lữ, quý tộc và những người dân còn lại được gọi là Đẳng cấp thứ ba, tức là đã loại bỏ tàn tích của chế độ phong kiến.

Nếu trong Bàn về chính quyền, Cicero đặt nền móng cho tam quyền phân lập và nguyên tắc “kiểm soát và cân bằng” thì tinh thần này được Montesquieu cụ thể hóa trong Bàn về tinh thần pháp luật. “Tự do chính trị của công dân là sự yên tâm vì mỗi người nghĩ rằng mình được an ninh. Muốn bảo đảm tự do chính trị như vậy thì chính phủ phải làm thế nào để một công dân này không phải sợ một công dân khác” (Montesquieu, p.92). Chính vì vậy mà tam quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp phải tách biệt kiểm soát lẫn nhau. Khi hai quyền hoặc thậm chí ba quyền trên tập trung vào tay một người thì “tất cả sẽ mất hết” (Montesquieu, p.93). Ông đi vào chi tiết từng cơ quan đảm nhiệm những vai trò trên và cách thức triển khai nó.

Mở đầu, tác giả bàn về hai chữ “tự do”: “Không có một tự nào lại có nhiều cách định nghĩa như từ Tự do (...). Người ta định nghĩa nó theo cách suy nghĩ và mong muốn riêng, nói chung họ gán tự do cho chính thể của nước mình mà chê bai chính thể của nước khác (...) Mọi người gọi Tự do là chính thể phù hợp với tập quán và khuynh hướng của mình”

Montesquieu xác định rằng chỉ ở nước Cộng hoà mới có tự do thật sự. Ở đây luật pháp nói nhiều mà người cầm quyền thì nói ít, và người ta đồng nhất khái niệm Quyền của nhân dân với Tự do của nhân dân. Ông viết: Tự do chính trị tuyệt đối không phải muốn làm gì thì làm. Ciceron (106-43tr.CN) định nghĩa: “ Tự do chỉ có thể là được làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm những điều không nên làm”, và Montesquieu bình luận thêm “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà luật pháp cho phép làm” (...).

Theo ông, một hiến pháp tốt là hiến pháp bảo đảm được tự do chính trị. Trong bất cứ quốc gia nào cũng đều có 3 thứ quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nếu mối quan hệ giữa ba thứ quyền đó là chính xác thì chính thể mới có tự do. Trái lại, những trường hợp sau đây làm mất tinh thần tự do:

  • Nếu quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão thì sẽ không có gì là tự do nữa
  • Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền hành pháp và lập pháp
  • Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan toà sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp.
  • Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm hết cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ đều mất hết. “Hãy xem: nếu cơ quan cầm quyền vừa là kẻ thi hành pháp luật vừa tự mình là kẻ lập pháp, thì họ có thể tàn phá quốc gia bằng những ý chí sai lầm của họ. Nếu họ còn nắm luôn cả quyền xét xử nữa thì họ có thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của họ”

Ông đi vào chi tiết vai trò của từng cơ quan và cách thức triển khai nó.

Bàn về quyền tư pháp, Montesquieu mong muốn sao cho người dân chỉ biết sợ cơ chế cai trị mà không sợ các ông quan. Như thế thì người bị cáo phải được tự mình chọn luật sư hoặc từ chối luật sư do toà án chỉ định mà bị cáo không thích. Trước toà, người thẩm phán cũng chỉ ngang địa vị như người bị cáo thì xét xử mới thật công minh.

Bàn về quyền lập pháp

Montesquieu yêu cầu mỗi công dân đều được bỏ phiếu cử ra đại biểu của địa phương mình để tham gia vào nghị việc quốc gia. Các đại biểu thay mặt cho một tập đoàn dân chúng phải báo cáo lại công việc đã bàn với các cử tri đã bầu ra mình. Nghị viện là cơ quan đại biểu dân chúng, không nên giải quyết các vụ việc cụ thể của quốc gia mà chỉ nên làm ra luật và xem xét người ta thực hiện luật như thế nào.

Tuy vậy Montesquieu chủ trương bên cạnh nghị viện dân chúng nên có nghị viện quý tộc. Ông biện minh cho chủ trương này như sau: trong một nước luôn luôn có những người nổi bật lên vì dòng giống, vì của cải, hoặc vì danh vọng của họ. Nếu họ cũng chỉ dùng được một lá phiếu như công dân thường thì tự do chung sẽ là điều nô lệ đối với họ, vì có thể phần lớn các quyết nghị chung chỉ phản ánh quyền lợi nguyện vọng của dân chúng chứ không phải của họ, có khi còn chống lại họ; cho nên họ sẽ không tha thiết gì bảo vệ tự do chung của dân chúng. Với lý do trên, Montesquieu chủ trương những người quý tộc tham gia công cuộc lập pháp nên có được một tỷ lệ cao tương ứng với vị thể ưu việt mà họ có trong quốc gia. Họ sẽ họp thành một cơ cấu riêng, tức nghị viện quý tộc. Cơ cấu này được quyền đình chỉ các dự định của họ. Nghị viện quý tộc chỉ được tham gia công việc lập pháp với chức năng ngăn cản chứ không có chức năng quy định.

Quan điểm trên đây được các nước thuộc hệ tư bản chủ nghĩa thực hiện một cách phổ biến

Ở đây, Montesquieu quan niệm về tự do và bình đẳng có sự khác nhau: bình đẳng là tĩnh, có khunh hướng dẫn tới dộc tài của đa số. Tự do là động, kích thích tài năng, dẫn tới khuynh hướng vô chính phủ, cho nên phải dung hoà hai điều này.

Bàn về quyền hành pháp

Montesquieu cho rằng quyền hành pháp phải nằm trong tay một vị vua chúa. Do hạn chế lịch sử ông chưa hình dung được một nhà nước không có vua. Tuy vậy ông đã giải thích đúng: “Quyền hành pháp luôn luôn cần đến một hành động nhất thời, để cho một người nắm thì hơn là nhiều người nắm. Nó khác với quyền lập pháp, do nhiều người bàn thì hơn là một người”

Cơ quan hành pháp là nơi chấp hành luật do cơ quan lập pháp ban hành nhưng nó lại có quyền ngăn cản  các dự định của cơ quan lập pháp. Kỳ hạn họp cơ quan lập pháp là do cơ quan hành pháp quy định. Quân đội không thể trao cho cơ quan lập pháp mà phải trao cho cơ quan hành pháp quản lý. Nhưng để cho người hành pháp không thể dùng quân đội đàn áp dân chúng thì quân đội phải mang tính chất nhân dân, đồng lòng với dân như thời Marius(người sáng lập ra quân đội nhà nghề, được tái cử tới 7 lần) ở Rome xưa

Cuối quyển XI, Montesquieu kết luận: “Một nhà nước có thể biến đổi bằng hai cách: hoặc là hiến pháp tự điều chỉnh, hoặc là chính thể tự huỷ hoại, vấn đề là phải giữ được nguyên tắc. Nếu nguyên tắc đã bị thủ tiêu thì hiến pháp có thay đổi gì đi nữa vẫn có thể coi là chính thể tự huỷ hoại”

         4. Bàn về quyền tự do của nhân dân

          Quyền tự do của nhân dân được đề cập trong Quyển XII: “Các luật tạo ra tự do chính trị trong môí quan hệ với công dân”

          Trong quan hệ với hiến pháp thì tự do chính trị bao gồm trong sự phân phối 3 quyền lực nhưng trong quan hệ với công dân thì tự do chính trị phải được xem xét dưới một ý nghĩa khác tức là về mặt an ninh hay trong quan niệm về an ninh

Có khi Hiến pháp thì tự do đấy, nhưng công dân thì chẳng tự do tí nào, có khi công dân tự do mà Hiến pháp lại không tự do. Trong các trường hợp ấy, Hiến pháp chỉ tự do về phương diện pháp luật chứ không tự do trong thực tế, còn công dân thì tự do trong thực tế chứ không tự do trên phương diện pháp luật

Ông viết: “ Khi người công dân vô tội không được bảo đảm an ninh thì tự do không còn nữa (...). Ở các nước có pháp luật tốt ngày xưa, người công dân ra trước toà, dù cho ngày mai bị treo cổ, ngày hôm đó anh ta vẫn còn tự do hơn là người quan toà ở Thổ Nhĩ Kỳ”.

“Tự do, với ý nghĩa triết học là sự thể hiện ý chí của mình, hoặc ít ra là được nói lên quan niệm về thực hiện ý chí ấy”

“Tự do chính trị bao hàm trong sự an ninh hoặc ít ra là trong quan niệm về sự an ninh

Montesquieu còn bàn thảo thấu triệt về “tội chống vua” (chương 7, Quyển XII). Theo đó, Luật Trung Hoa quy định tội bất kính với vua thì phải tử hình. Nhưng luật không định nghĩa thể nào là bất kính nên điều gì cũng có thể xảy ra. Điều này cho thấy xét xử dựa trên những điều mơ hồ, không rõ ràng sẽ làm cho chính thể trở thành chuyên chế.

- Về chuyện ý nghĩ: Nguời cận thần Masyas kể lại câu chuyện anh ta thấy mình giết vua. Lập tức vua Denis (Italia, 405-367tr.CN) hạ lệnh xử tử hình Marsyas với lý do: “Điều nó chiêm bao ban đêm là cái nó nghĩ ra ban ngày”. Đây là một chuyện độc đoán tệ hại: luật bao giờ cũng chỉ là trừng phạt hành động đã thể hiện ra, chứ không được trừng phạt ý nghĩ.

- Cũng không thể lấy lời nói làm cái cớ để khép người công dân vào trọng tội, vì các lời nói chỉ là mục tiêu cho người đời bình luận. Một câu bép xép khác xa với mưu đồ làm hại. Cho nên, “ở đâu mà xử tội công dân chỉ căn cứ trên lời nói thì ở đó không còn tự do nữa”

- Tuy vậy, trong trường hợp lời nói gắn liền với hành động, như diễn thuyết trên quảng trường kêu gọi dân chúng nổi loạn thì có thể xử tội chống vua. Nhưng đây là xử phạt hành động chống vua thê hiện bằng lời nói, chứ không phải xử phạt vì lời nói.

- Cũng không thể buộc tội người vì chuyện văn chương, nếu văn chương ấy không chuẩn bị để làm nên việc chống đối. Montesquieu nhận xét, ở các nước chuyên chế rất hiếm thấy văn chương châm biếm, vì người ta sợ bị trị tội. Ở các nước dân chủ, văn thơ châm biếm bị cảnh sát theo dõi chứ không bị kết tội. Chính thể quý tộc là nơi đầy ải văn thơ trào phúng, vì các nhà quý tộc là những ông vua con, không đủ tầm quảng đại để coi thường văn thơ trào phúng. Chỉ trong các nước dân chủ, văn thơ trào phúng mới không bị cấm đoán, vì nó thường chống lại kẻ mạnh, khuyến khích sự tinh anh của dân chúng, an ủi người bất mãn, hạn chế tham vọng địa vị...

Montesquieu ca ngợi một số điều luật của Hy Lạp xưa và Rome xưa: ở Athene, kẻ buộc tội người mà không giành được một phần năm số phiếu tán thành thì bị phạt 1000 đồng. Ở Rome, kẻ buộc tội không chính đáng thì bị phạt biêu riếu bằng cách in lên trán một chữ K, nghĩa là vu khống.  

5. Ông còn đi sâu vào phân tích hàng loạt vấn đề quan trọng như an ninh, phòng thủ, xây dựng quân đội; thuế, thu nhập quốc gia và thu nhập nhân dân; dân số, hôn nhân, gia đình, thừa kế; quan hệ của pháp luật với điều kiện địa lý, khí hậu, với tính cách dân tộc, với quan hệ thương mại và cuối cùng là cách soạn thảo luật.

Trong một bài nghiên cứu khái quát, không thể trình bày dàn trải hết mọi vấn đề trong tác phẩm. Chỉ xin nhấn mạnh vào một đôi chỗ đáng quan tâm về mặt nhận thức của chúng ta ngày nay.

Quan điểm về tự do trong mức đóng góp với thu nhập công cộng (mức đóng góp của người dân cho nhà nước) (quyển XIII)

 “Thu nhập quốc gia là một phần đóng góp của công dân, để đảm bảo an ninh quốc gia, và để hưởng nền an ninh ấy một cách thoải mái”. Muốn xác định thu nhập quốc gia thì phải tính toán các nhu cầu quốc gia và nhu cầu của nhân dân. Không được lấy nhu cầu của dân làm nhu cầu của quốc gia một cách hồ đồ.

Montesquieu từ đầu đã khẳng định: “Phải vận dụng trí thông minh để tính toán và điều chỉnh giữa 2 phần: phần lấy của dân và phần để lại cho dân

Ông còn giải thích thêm: “Không phải tính toán cái gì dân có thể đóng góp mà cần phải tính toán dân phải đóng góp cái gì”

Từ nhận định chung, nhà luật học còn đưa ra những minh chứng cụ thể ở các quốc gia. Ông viết: Trong các quốc gia chuyên chế thì dân mất tự do, mức đóng góp là rất tuỳ tiện. Trong các quốc gia vừa phải, sức nặng của đóng góp được cân bằng với mức hưởng thụ tự do. Ví dụ ở Thuỵ Sỹ xưa thì người dân không đóng góp gì cả; trong khi đó ở Anh, Hà Lan và Thổ Nhĩ Kỳ thì vẫn theo quy luật.

Quan điểm “khí hậu – địa lý quyết định sự phát triển của xã hộiđược Montesquieu bảo vệ một cách quán triệt trong suốt 5 quyển, từ quyển XIV đến quyển XVIII. Đây là nội dung gây nhiều tranh cãi nhất trong tác phẩm

Ông viết như thế này: “Khí hậu nóng thì sức mạnh và tính dũng cảm của con người bị chùn lại. Khí hậu lạnh giúp cho thân thể và đầu óc người ta thích ứng với những hoạt động dai dẳng, nhọc nhằn và gai góc (...). Ông còn dành một chương nói về khí hậu châu Á: “Châu Á không có một vùng khí hậu trung bình, những nơi lạnh nhất tiếp giáp ngay với nơi nóng nhất: Thổ Nhĩ Kỳ, Mông Cổ, Ba Tư tiếp giáp với Trung Hoa, Triều Tiên rồi Nhật Bản. Trái lại, ở châu Âu vung khí hậu trung bình rộng bao la. Tuy vẫn có những loại khí hậu khác nhau nhưng sự tương phản giữa Tây ban Nha với Italia, giữa Nauy và Thuỵ Điển là không đáng kể. Cho nên, ở châu Á, nước mạnh đối diện ngay với nước yếu; những dân tộc thiện chiến, dũng cảm, hiếu động ở sát kề những dân tộc yếu đuối, lười biếng, nhút nhát và tất nhiên dân tộc này bị chinh phục thì dân tộc kia là kẻ đi chinh phục. Châu Âu thì trái lại, nước mạnh sát kề nước mạnh, họ cùng can đảm như nhau. Đây là lý do chủ yếu tạo nên châu Âu can đảm và châu Á yếu hèn”. Ông dẫn lời Aristote: “nguời châu Á khéo tay nhưng không can đảm nên họ luôn vâng lời và phục vụ người khác”

Đã từng có một thời quan điểm này được nhiều người hoan nghênh, coi như một phát kiến lớn. Tuy vậy, ngay từ thời ấy Voltaireddax chỉ trích một luận điểm của Montesquieu cho rằng: “Dân chúng xứ nóng nhút nhát như người già cả, dân chúng xứ lạnh can đảm như các chàng trai”. Voltaire dẫn chứng: “Không bao giờ có thể bảo người Laponie hay người Samoy (xứ lạnh) ra trận. Người Araap (xứ nóng) thì trong 80 năm đã chinh phục các vùng rộng lớn hơn cả khu vực của người Rome xưa (...). Về sau đến lần xuất bản năm 1794 đã có người ghi chú phản bác thuyết “Khí hậu quyết định” của Montesquieu như sau: rõ ràng rằng giáo dục và pháp luật có thể thắng được những khuynh hướng, phong tục sẵn có, tạo ra hạnh kiểm hay khuyết tật của con người. Lịch sử ghi nhiều chuyển biến (...), thế hệ sau không giống thể hệ trước, những cái đó không gắn với khí hậu.

Bàn về tính cách dân tộc, Montesquieu có những luận giải độc đáo, ông viết: “có nhiều yếu tố thống trị con người: khí hậu, tôn giáo, kỷ cương nhà nước, gương thành bại đã qua, phong tục tập quán (...), từ đó mà hình thành tính cách một xã hội con người (...). Vì vậy nhà lập pháp cần tôn trọng tính cách của các dân tộc”

Triển khai quan điểm nói trên, Montesquieu bình luận về hiến pháp và tính cách dân tộc Trung Hoa: “Các nhà lập pháp Trung Hoa nhập cả tôn giáo, pháp luật, phong tục tập quán và luân lý đạo đức lại. Các giáo điều trong bốn loại hình trên được gọi là “lễ”. Các nho sĩ dạy lễ và các pháp quan truyền bá lễ, lễ bao trùm mọi việc lớn nhỏ trên đời, nên một khi mọi người đều tuân theo lẽ thì nước Trung Hoa được cai trị tốt. (...). Những gíao điều chung về lễ không có gì là trí tuệ cao xa, mà chủ đơn giản là những quy tắc thực hành chinh nên đã chinh phục lương tri và in sâu vào trong trí óc (...) Do đó pháp luật Trung Hoa không mất ngay cả khi nước trung Hoa bị chinh phục. Tập quán, phong tục, pháp luật, tôn giáo vẫn thế, và nếu có thay đổi thì chính là kẻ chinh phục phải thay đổi dần theo người Trung hoa. Có điều lạ là người Trung Hoa hoàn toàn bị điều khiển theo lễ, nhưng trái lại đó là một dân tộc láu lỉnh nhất hoàn cầu”. Villemain tán thưởng quan điểm của Montesquieu và chú thích: “Tính cách chung của một dân tộc là không gì thắng nổi. Nó tác động đến cả những kẻ muốn từ chối nó. Nó làm ra pháp luật hoặc vô hiệu hoá pháp luật”

è Qua cách nhìn nhận của Montesquieu có thể rút ra, trong quá trình xây dựng luật ở Việt Nam cần nhất thiết chú trọng đến “văn hoá dân tộc”, văn hoá Á Đông. Chẳng hạn Việt Nam khi thông qua các luật mới về bình đẳng giới, về thừa nhận hay không giới tính thứ 3... phải tính đến yếu tố văn hoá,dân tộc.

Bàn về cách soạn thảo luật, Montesquieu có nhiều luận giải xác đáng, có nghĩa hướng dẫn cho người làm luật đời nay. Cụ thể là:

  • Tinh thần điều tiết phải là tinh thần của người làm luật”
  • “Những quy tắc tư pháp là cần thiết cho tự do. Nhưng nếu số lượng các quy tắc quá nhiều thì có thể sẽ gây mâu thuẫn, nó có thể làm cho quyền sở hữu tài sản thành ra mơ hồ, có thể làm cho người tố cáo không đủ phương tiện để chưngs minh và người bi cáo không đủ phương tiện để thanh minh
  • “Một chính phủ càng xa các đảng phái và càng gần với phương sách trung dung thì càng được vững vàng. (...) Ưu thế của nhà giàu đánh đổ chính phủ nhiều hơn ưu thế của người nghèo và của muôn dân”.
  • “Phong cách văn luật phải thật ngắn gọn, rõ ràng (...), chớ vòng vo, chớ khoe khoang. Luật không cần phải mềm mỏng, tế nhị. Luật là để đối phó với mọi người, với đủ mọi quan niệm khác nhau; nó không phải là một nghệ thuật logic mà là lý lẽ giản đơn của ông bố trong gia đình” (quyển XXIX).

Kết luận

Dù bàn về một vấn đề rất khó hiểu và phức tạp nhưng Bàn về tinh thần pháp luật không phải là một tác phẩm hàn lâm chỉ dành cho giới nghiên cứu bởi cách viết của Montesquieu đã “phổ thông hóa luật học”, với niềm tin rằng “chỉ có phương pháp thực nghiệm là phương pháp duy nhất có thể đem lại kết quả chắc chắn” (Đạm, H. p.30), cùng phương pháp quy nạp, đi từ những sự kiện để rút ra quy luật, vừa dễ hiểu, vừa thực tế.

Bất chấp những chỉ trích, đặc biệt là những ngăn cấm của Giáo hội thời bấy giờ, Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu là một sự can đảm khi phản đối những lạm dụng, lên án mọi hình thức độc tài (Đạm, H. p.33) và đưa ra những kiến giải mới mẻ của thời đại, là nền tảng cho Cách mạng Pháp và sau này là mô hình nhà nước dân chủ Hoa Kỳ cũng như nhiều quốc gia khác.

          Đã gần 300 năm trôi qua kể từ khi tác phẩm ra đời. Có những luận điểm của Montesquieu đã bi lịch sử vượt xa. Tuy nhiên, giá trị tư tưởng và đạo đức sâu sắc mà ông để lại trong tác phẩm vẫn còn đó và vẫn tiếp tục được phát triển cho đến ngày nay./.

Các bản tin trước:

Các bản tin tiếp theo: