Thành phố Đà Nẵng

HỆ THỐNG TỔ CHỨC

Cổng thông tin Chính phủ
Văn bản pháp quy
Biểu mẫu

Liên kết

Thống kê truy cập

Lượt truy cập:2.724.280
Hôm qua:1.175
Hôm nay:960

Tìm kiếm thông tin

Tìm kiếm

Đăng nhập

Tên đăng nhập:
Mật khẩu:
Đăng nhập với vai trò


Đăng nhập

Nghiên cứu - Trao đổi

Xây dựng chính quyền địa phương theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

15:06 | 27/10/2021 2360

Chính quyền địa phương là một bộ phận hữu cơ hợp thành của bộ máy nhà nước được tổ chức ở các đơn vị hành chính phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi lãnh thổ địa phương theo quy định của pháp luật. Từ năm 1945 đến nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc tổ chức xây dựng chính quyền địa phương.

1. Quá trình hình thành và phát triển chính quyền địa phương ở Việt Nam

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, để giữ vững thành quả cách mạng, củng cố niềm tin của nhân dân, cần thiết phải thiết lập ngay hệ thống chính quyền địa phương ở các cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp (xã, huyện, tỉnh, kỳ), quy định chặt chẽ các nguyên tắc, quy trình xây dựng và tổ chức chính quyền địa phương trong giai đoạn xây dựng, củng cố chính quyền non trẻ mới thành lập sau Cách mạng tháng Tám.

  Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa và mở rộng cuộc chiến tranh, Chính phủ xác định kháng chiến là nhiệm vụ hàng đầu nên bên cạnh Uỷ ban hành chính còn có Ủy ban kháng chiến các cấp. Đây là cách tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với cuộc kháng chiến và sau đó Chính phủ thực hiện phân quyền hành chính mạnh mẽ cho các địa phương. Ngày 01/10/1947, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 91/SL thống nhất tên gọi Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính ở tất cả các cấp chính quyền để phù hợp với tình hình mới. 

  Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, hòa bình được lập lại ở miền bắc, nhiệm vụ xây dựng, củng cố chính quyền địa phương phải đảm bảo tính tập trung, xuyên suốt, nhất là ở các vùng mới giải phóng. Do đó, các Ủy ban kháng chiến hành chính đều đổi lại thành Ủy ban hành chính ở cấp khu, tỉnh, huyện, xã. Luật Tổ chức chính quyền địa phương được kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I thông qua ngày 31/5/1958. Đây là luật quan trọng về tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam, là nền tảng pháp lý để củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy cũng như hoạt động của các cơ quan chính quyền các cấp trong điều kiện mới. Thời kỳ này công tác xây dựng chính quyền tập trung vào việc  củng cố, ổn định bộ máy chính quyền cấp tỉnh, huyện, xã; sắp xếp đội ngũ cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo đối với chính quyền cấp xã; tiến hành bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ huyện, xã.

  Thực hiện quy định của Hiến pháp 1959, các địa phương ở nước ta tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vào đầu năm 1961. Như vậy, các cấp chính quyền địa phương đều có Hội đồng nhân dân và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương được tăng cường, hoạt động hiệu quả hơn. Thời gian này Đảng và Chính phủ quan tâm chỉ đạo công tác kiện toàn, củng cố chính quyền địa phương, xác định rõ tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ cơ bản của từng cấp. Ngày 10/11/1962, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính được ban hành, đánh dấu một bước tiến mới trong việc củng cố chính quyền dân chủ nhân dân ở nước ta.

  Từ năm 1975 đến năm 2002, công tác củng cố, kiện toàn chính quyền địa phương tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu sau: Bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ 5 năm; Xây dựng Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo tinh thần Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992; Xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương các cấp thông qua việc Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về chế độ công tác của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, về chức năng, nhiệm vụ, lề lối làm việc của Ủy ban nhân dân cấp huyện và kiện toàn chính quyền cơ sở, bổ sung chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã; điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã của một số địa phương; thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính. Đặc biệt, giai đoạn này Chính phủ đã ban hành Nghị định 29/1998/NĐ-CP về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX năm 2002 về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.

  Từ năm 2002 đến nay: Đây là giai đoạn thực sự có sự chuyển biến đối với công tác xây dựng chính quyền nhằm thể chế hóa được tinh thần đổi mới của Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành chính thống nhất, thông suốt, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Kiện toàn và củng cố Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền để thực hiện đầy đủ vai trò là cơ quan đại diện của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân ở từng cấp.

2. Định hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động chính quyền địa phương ở Việt Nam theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Một là, hoàn thiện các mô hình tổ chức quyền địa phương ở các đơn vị hành chính chính. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”.

Hai là, kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy, thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực và hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Việc kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy, thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực và hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương phải quán triệt quan điểm của Đảng tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: “cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giản hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế”.

Ba là, tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng về điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở cấp huyện và cấp xã dựa trên những căn cứ, tiêu chí khoa học. Nhận thức thống nhất quan điểm của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: “tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước các cấp, đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, trước tiên cần thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các quy định pháp luật về tiêu chí của đơn hành chính, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của đất nước; xây dựng quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp. Các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã sau khi được sắp xếp phải đạt tiêu chí về diện tích tự nhiên, quy mô dân số và các tiêu chí khác theo quy định của pháp luật.

Khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã phải chú trọng, cân nhắc kỹ các yếu tố đặc thù về truyền thống lịch sử, văn hóa, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cộng đồng dân cư, yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, cần gắn việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; giải quyết chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.

Bốn là, quy định rõ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương. Việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của chính quyền địa phương phải “tập trung thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản, giải quyết các vấn đề xã hội, thực thi pháp luật, cải thiện môi trường kinh doanh và bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn”. Quá trình triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cần quán triệt nguyên tắc phân định chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương các cấp, trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương. Đồng thời, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cấp chính quyền địa phương cũng phải bảo đảm sự gắn kết giữa hai thiết chế Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương theo quy định của pháp luật.

Năm là, thực hiện sự phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa trung ương, địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương. Thực hiện sự phân cấp, phân quyền, ủy quyền thật rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn giữa trung ương, địa phương và giữa mỗi cấp chính quyền địa phương, đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp; đồng thời, khắc phục tình rạng đùn đẩy, né trách trách nhiệm giữa chính quyền trung ương và địa phương khi thực hiện nhiệm vụ. Quán triệt và thực hiện guyên tắc “Đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, uỷ quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương”. Đồng thời, thực hiện sự phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương cần “phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, chức, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức”. Quán triệt và khắc phục tình trạng nhiều nhiệm vụ của trung ương được giao cho địa phương thực hiện nhưng chỉ giao thực hiện nhiệm vụ mà không giao các nguồn lực, điều kiện bảo để thực hiện dẫn đến thiếu tính khả thi hay gây khó khăn cho chính quyền địa phương. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương”.

  Như vậy, xây dựng chính quyền địa phương là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị. Thành công trong xây dựng chính quyền địa phương trong sạch, vững mạnh xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của chính quyền các cấp một cách thiết thực, hiệu quả, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân./.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

3. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.

4. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019.

 

                                                               Giảng viên Trương Quang Tri

                                                                      Khoa Nhà nước pháp luật

Các bản tin trước:

Các bản tin tiếp theo: