Thành phố Đà Nẵng

HỆ THỐNG TỔ CHỨC

Cổng thông tin Chính phủ
Văn bản pháp quy
Biểu mẫu

Liên kết

Thống kê truy cập

Lượt truy cập:2.849.871
Hôm qua:1.690
Hôm nay:1.298

Tìm kiếm thông tin

Tìm kiếm

Đăng nhập

Tên đăng nhập:
Mật khẩu:
Đăng nhập với vai trò


Đăng nhập

Nghiên cứu - Trao đổi

PHÊ PHÁN SỰ PHÊ PHÁN THIẾU TÍNH KHOA HỌC ĐỐI VỚI CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

13:59 | 26/10/2018 1552

GS, TS Nguyễn Hùng Hậu

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(LLCT) - Bài viết tập trung phê phán quan điểm cho rằng: chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, cùng lắm là đầu thế kỷ XX, ở các nước Tây Âu, chứ không thích hợp với các nước phương Đông lạc hậu như Việt Nam; Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là “một sai lầm của lịch sử”,“đã kìm hãm sự phát triển của đất nước”; “Người tiếp thu mù quáng chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không hề có tư tưởng cao siêu”; đồng thời chỉ ra đây là là một sự bôi nhọ, vu khống trắng trợn, phi văn hóa, thiếu tính khoa học của những người phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin.

Ảnh: Internet

1. Trước hết ta hãy phân tích luận điểm này: chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, cùng lắm là đầu thế kỷ XX. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Ngày 30-4-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước đi lên CNXH. Năm 1986, cả nước tiến hành công cuộc đổi mới và cho đến nay đã thu được những thắng lợi quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Những thành công vang dội ở thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng mà nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo lôgíc, chỉ cần chỉ ra một cái không đúng thì toàn bộ luận điểm này là không đúng, tức sai lầm.

Với câu hỏi: bước sang thế kỷ XXI, trong thời đại văn minh tin học, kinh tế tri thức, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chủ nghĩa Mác - Lênin có tỏ ra lỗi thời, có bị lịch sử vượt qua hay không? Những người phê phán này không hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống mở, nó luôn phải được bổ sung phát triển bởi thực tiễn cuộc sống. Trong bài Về một số đặc điểm trong sự phát triển lịch sử của chủ nghĩa Mác,V.I.Lênin đã viết: Chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động, chính vì thế nó không thể không phản ánh sự biến đổi mạnh mẽ của điều kiện sinh hoạt xã hội(1). Trong bài Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin cho rằng, chủ nghĩa Mác không có gì là giống “chủ nghĩa bè phái” hiểu theo nghĩa một học thuyết bo bo chỉ biết có mình và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới. Trái lại, thiên tài của Mác là ở chỗ đã giải đáp được những vấn đề mà nhân loại tiên tiến đã đặt ra. Học thuyết của ông ra đời là sự kế thừa thẳng và trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội.

Phép biện chứng khẳng định cái gì có sinh tất có diệt. Trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng. Trong thời đại văn minh tin học, kinh tế tri thức, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vẫn còn đó hiện tượng ô nhiễm môi trường, nguy cơ mất cân bằng sinh thái, do vậy rất cần tuân thủ chỉ dẫn của Ph.Ăngghen về vấn đề này, “trong giới tự nhiên, không có cái gì xảy ra một cách đơn độc cả; hiện tượng này tác động đến hiện tượng khác và ngược lại; bởi vậy chúng ta không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần chúng ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta”; “chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên”.

Với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với các nước Tây Âu, không thích hợp với các nước phương Đông lạc hậu như Việt Nam hoặc Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là “một sai lầm của lịch sử”, “đã kìm hãm sự phát triển của đất nước”.

Thế nào là “phù hợp”? Thế nào là “không thích hợp”? Một tư tưởng khoa học, đúng đắn, tiến bộ, mang ý nghĩa chân lý không thể nói phù hợp hay không thích hợp được. Riêng điều này đã mang hàm ý chủ quan, không trung thực, không phản ánh đúng thực tế của lịch sử. Đành rằng chủ nghĩa Mác ra đời ở phương Tây; nhưng những thành tựu của phương Tây, đặc biệt là khoa học công nghệ, tư tưởng nhân văn, ...phải chăng các nước phương Đông trong đó có Việt Nam không nên tiếp nhận? Phải chăng “không phải là sản phẩm của thực tiễn Việt Nam” thì “không thích hợp”; do đó việc du nhập những thành tựu này vào Việt Nam là “một sai lầm của lịch sử”, “đã kìm hãm sự phát triển của đất nước”? Nói thế chẳng hóa ra việc tiếp thu những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng là “một sai lầm của lịch sử”, “đã kìm hãm sự phát triển của đất nước”? Nếu không đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào trong quỹ đạo của cách mạng vô sản như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm, nếu không có chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì liệu khi đó chúng ta có giải phóng được đất nước hay không? Lịch sử đã chứng minh tất cả các cuộc kháng Pháp trước đó đều bị thất bại. Sự thật đanh thép này những người phê phán không thể bác bỏ được.

Tất nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời đã được gần 200 năm. Chúng ta cần xem trong chủ nghĩa Mác - Lênin, cái gì vẫn còn đúng và vẫn còn có giá trị lâu dài; cái gì trước kia chúng ta hiểu không đúng nay phải điều chỉnh lại cho đúng; cái gì ngay từ thời các nhà kinh điển đã thừa nhận là không đúng; cái gì đã bị thực tiễn vượt qua, đặc biệt là thực tiễn ở Việt Nam mà chúng ta cần bổ sung, phát triển.

Những “nhà phê phán” còn viết sách, báo, sản xuất băng hình nhằm xuyên tạc, bôi nhọ cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các thế lực thù địch đã đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ cho rằng, Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không lựa chọn con đường XHCN. Thậm chí chúng còn phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh khi cho rằng, Hồ Chí Minh chỉ là người tiếp thu mù quáng chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không hề có tư tưởng cao siêu. Từ đó họ phát động chiến dịch bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh, bôi nhọ danh nhân mà họ gọi là chiến dịch “hạ bệ thần tượng”. Gần đây chúng tung lên luận điệu “No Ho” phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc công lao, sự nghiệp vĩ đại của Người. Thâm độc hơn, chúng tung ra luận điệu tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với học thuyết Mác - Lênin. Chúng ngụy biện rằng, bây giờ học thuyết Mác - Lênin đã lỗi thời, chỉ dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao chủ nghĩa Hồ Chí Minh. “Chủ nghĩa Hồ Chí Minh” cũng ám chỉ chủ nghĩa dân tộc. Đây là một luận điệu nguy hiểm, vì như vậy sẽ làm suy yếu tư tưởng Hồ Chí Minh và thực chất là để phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến tới phủ định chính ngay tư tưởng Hồ Chí Minh.

Có một sự thật không thể chối cãi được, Hồ Chí Minh là người đầu tiên tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời cũng là người đầu tiên vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin lên tầm cao mới trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, từ đó đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Những phân tích sau đây chứng minh luận điểm cho rằng “Hồ Chí Minh chỉ là người tiếp thu mù quáng chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không hề có tư tưởng cao siêu”, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với học thuyết Mác - Lênin, là một sự bôi nhọ, vu khống trắng trợn, phi văn hóa, thiếu tính khoa học của những người phê phán.

Khi phân tích xã hội phương Đông, đặc biệt là Việt Nam, Hồ Chí Minh phát hiện ra rằng, ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của lịch sử; vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây. Từ những nhận xét đó, Người đi đến kết luận: “Xã hội Ấn Độ - China - và tôi có thể nói: Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”(2). Đây là những kết luận khoa học được rút ra từ việc nghiên cứu cẩn thận, lâu dài của Hồ Chí Minh. Từ phân tích về mặt giai cấp, xã hội ở các nước phương Đông và Việt Nam, Hồ Chí Minh mặc dù có thể chưa đọc được những tác phẩm của C.Mác về phương Đông nhưng đã đi gần đến tư tưởng của C.Mác, nhất là quan niệm về “phương thức sản xuất châu Á” với đặc trưng là tính tự trị, độc lập, biệt lập của công xã; cái đặc trưng này, theo Người, dẫn đến sự thiếu tin cậy lẫn nhau, đó là nguyên nhân gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông. “Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau(3).

Đi sâu nghiên cứu phương Đông, Hồ Chí Minh đã đặt ra một vấn đề hết sức chính xác: “Mác cho ta biết rằng sự tiến triển của các xã hội trải qua ba giai đoạn: Chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản; và trong mỗi giai đoạn ấy, đấu tranh giai cấp có khác nhau. Chúng ta phải coi chừng! Các dân tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu không?”(4). Ở phương Đông, do ảnh hưởng của cái gọi là phương thức sản xuất châu Á kéo dài dai dẳng từ sau khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã cho đến tận những năm đầu của thế kỷ XIX, nên xã hội phương Đông và Việt Nam không thật điển hình như phương Tây. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh nhận xét: tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau, ta không giống Liên Xô, ta có thể đi theo con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh viết: không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không có được. Người đề xuất: “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(5). Tại sao lại như vậy? Theo Người, “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà lịch sử châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”(6). Ở đây, Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện cụ thể của các nước phương Đông và đặc biệt là ở Việt Nam chứ không phải là xét lại chủ nghĩa Mác. Với những tư tưởng này, phải chăng Hồ Chí Minh chỉ là người tiếp thu mù quáng chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không hề có tư tưởng cao siêu nào như những nhà phê phán rêu rao?

Trong Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất cuốn Tư bản, Phê phán khoa kinh tế chính trị, tập thứ nhất, quyển I, C.Mác viết: “Trong tất cả các lĩnh vực khác thì cũng giống như các nước khác ở lục địa Tây Âu, chúng ta (tức nước Đức) đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ. Ngoài những tai họa của thời hiện nay ra, chúng ta còn phải chịu đựng cả một loạt những tai họa kế thừa do chỗ các phương thức sản xuất cổ xưa, lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra. Chúng ta đau khổ không những vì những người đang sống, mà còn vì những người đã chết nữa. Le mort saisit le vif! (người chết nắm lấy người sống!)”(7).

Trước kia, những nước tiền tư bản tiến lên CNXH thường quá nhấn mạnh vào mặt, khía cạnh thứ nhất, tức chúng ta đau khổ vì chủ nghĩa tư bản; mà ít để ý tới mặt, khía cạnh thứ hai, tức đau khổ vì thiếu nó; tức thiếu tất cả những cái mà CNTB đã tích lũy được trong vòng ba trăm năm như khoa học công nghệ, ý thức pháp luật, mặt bằng dân trí, quản lý kinh tế,... Những nước XHCN ở phương Đông do xuất phát điểm chưa trải qua giai đoạn phát triển TBCN, nên về mặt kinh tế cũng nằm trong tình trạng như vậy; và do đó hiện nay, những nước này không chỉ thấm thía vế thứ hai mà C.Mác đã nói, tức đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ, đau khổ vì thiếu nó, mà còn thấm thía cả việc những tai họa do việc kế thừa các phương thức sản xuất cổ xưa, lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra. Điều này đối với Việt Nam hiện nay thì lại càng rõ.

Trong tác phẩm Đệ tam quốc tế và địa vị của nó trong lịch sử(viết vào tháng 4-1919), V.I.Lênin viết: “Tôi thường có dịp nhắc tới điều đó rằng: so với các nước tiên tiến, thì đối với nước Nga, bắt đầu cuộc đại cách mạng vô sản là một điều có dễ dàng hơn, nhưng tiếp tục cuộc cách mạng đó và đưa nó đến thắng lợi cuối cùng, ý nghĩa là một tổ chức toàn vẹn một xã hội xã hội chủ nghĩa, lại là một điều khó khăn hơn”(8).

V.I.Lênin đã chỉ ra các lý do khiến nước Nga so với những nước tư bản tiên tiến thì bắt đầu cuộc đại cách mạng vô sản là một điều có dễ dàng hơn, trong đó cái quan trọng là tình trạng lạc hậu về kinh tế của nước Nga so với các nước phương Tây. Nhưng điều đặc biệt quan trọng, mà C.Mác, Ph.Ăngghen cuối đời đã phát hiện ra là nước Nga vẫn còn rơi rớt những tàn dư của công xã nông thôn, tức vẫn còn ảnh hưởng của phương thức sản xuất châu Á.

V.I.Lênin viết: “Đương nhiên, kiểm điểm như thế chưa phải là đã đầy đủ... Muốn tiếp tục sự nghiệp kiến thiết xã hội chủ nghĩa và hoàn thành tốt sự nghiệp ấy, thì còn có nhiều việc phải làm. Ở các nước tiến hóa hơn, nơi mà giai cấp vô sản có nhiều thế lực và ảnh hưởng hơn, thìnhững nước Cộng hòa Xôviết ở đó có tất cả mọi cơ hội để vượt nước Nga, khi họ bước vào con đường chuyên chính vô sản”(9). Như vậy, theo V.I.Lênin, việc tiếp tục cuộc cách mạng đó và đưa nó đến thắng lợi cuối cùng, đối với nước Nga lại là một điều khó khăn hơn, và những nước tiên tiến này nếu tiến lên CNXH thì sẽ vượt nước Nga.

Nghiên cứu tình hình cụ thể các nước phương Đông, Hồ Chí Minh cho rằng, với “những lí do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu”(10). Phát hiện mang tính chất dự đoán thiên tài nhưng có cơ sở này của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1921 đến nay vẫn tỏ ra có sức sống, đứng vững và được thực tế chứng minh. Điều này càng chứng minh thêm cho sự bôi nhọ trắng trợn, phi văn hóa, thiếu tính khoa học, một sự vu khống trắng trợn của những người phê phán.

Điểm khác biệt giữa châu Á và châu Âu, giữa phương Đông và phương Tây là ở chỗ: ảnh hưởng của cái gọi là “phương thức sản xuất châu Á” kéo dài, dai dẳng, tạo nên một điểm đặc trưng riêng biệt của phương Đông là việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất trong một thời gian khá dài - cái mà C.Mác cho là “cơ sở” của tất cả các hiện tượng ở phương Đông, còn Ăngghen cho là “chiếc chìa khóa” để hiểu toàn bộ phương Đông. Trong Kính thư có ghi: đất đai dưới trời đâu chẳng là của vua, người trên đất đai ấy ai chẳng là thần dân của vua (Phổ thiên chi hạ mạc phi vương thổ; xuất hải chi tân mạc phi vương thần). GS Trần Đình Hượu sau này cho rằng, cùng với chế độ “lãnh hữu” (chứ không phải “sở hữu” về ruộng đất), các nước phương Đông dễ tiến lên CNXH hơn CNTB.

Nhưng, dễ tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đó là hai việc khác nhau. Cái thứ nhất chỉ là một tiền đề, điều kiện thuận lợi, còn cái thứ hai mới là đích. Từ đó, Hồ Chí Minh cho rằng: thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng, nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn nhiều; cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng vĩ đại, vẻ vang nhất, nhưng là cuộc cách mạng gay go nhất, phức tạp, khó khăn nhất, là cuộc chiến khổng lồ chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi.

Trên mạng xã hội gần đây, người ta thấyluận điệu “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa, ngay cả Bộ Chính trị”. Thật là hồ đồ. Nhận thức rõ âm mưu và hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong các văn kiện Đại hội thời kỳ đổi mới, Đảng nhiều lần nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình”, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng. Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu “tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”(11).

Để thực hiện chủ trương đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác tư tưởng, lý luận; chẳng hạn như Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 5 khóa X Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW “Về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa”. Tuy nhiên, công tác tư tưởng, lý luận nói chung, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị nói riêng nhằm chống những quan điểm sai trái, thù địch, chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch như Đại hội XII của Đảng đã nhận định còn nhiều hạn chế, bất cập. “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao”(12).

________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2018                                   

(1) V.I.Lênin: Toàn tập, t.20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.99. ­

(2), (3), (4), (5), (6), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.509, tr.284, 510, 510, 509-510, 47.

(7) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.19-20.

(8), (9) V.I.Lênin: Toàn tập, t.38, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, Hà Nội 2000,, tr. 367-368, 479.

(11), (12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.201, 192-198.

(Người sưu tầm: Nguyễn Nữ Đoàn Vy)

 

 

Các bản tin trước:

Các bản tin tiếp theo: