Thành phố Đà Nẵng

HỆ THỐNG TỔ CHỨC

Cổng thông tin Chính phủ
Văn bản pháp quy
Biểu mẫu

Liên kết

Thống kê truy cập

Lượt truy cập:2.796.747
Hôm qua:1.174
Hôm nay:1.127

Tìm kiếm thông tin

Tìm kiếm

Đăng nhập

Tên đăng nhập:
Mật khẩu:
Đăng nhập với vai trò


Đăng nhập

Giới thiệu sách, tác phẩm

Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền

15:48 | 30/03/2018 2300

Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền

Xây dựng Nhà nước pháp quyền đang có xu hướng trở thành quy luật của mọi Nhà nước. Trong nhiều quan điểm về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, có quan điểm chỉ rõ vai trò của tư pháp, nhưng cũng có quan điểm không đề cập đến vai trò của tư pháp trong Nhà nước pháp quyền. Nhưng dù có chỉ ra hay không, khi nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến sự đề cao vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh mọi hoạt động của Nhà nước và của xã hội. Một khi vai trò của pháp luật đã được đề cao, thì đề cao vai trò hoạt động xét xử của tư pháp là một tất yếu. Sự đề cao pháp luật luôn gắn với sự đề cao vai trò của hoạt động tư pháp. Hay nói một cách khác, hiệu quả, hiệu lực của tư pháp là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Bất cứ Nhà nước nào muốn tổ chức theo Nhà nước pháp quyền cũng phải quan tâm đến tư pháp, vì tư pháp có vai trò bảo đảm thực hiện tất cả các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền ở mức độ này hay mức độ khác.

Cùng với việc khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi vào năm 2001, Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp. Sau Hiến pháp năm 1992 sửa đổi là sự ra đời của Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Sự liên hệ này cho thấy tư pháp gắn chặt với Nhà nước pháp quyền. Một khi đã chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền, không thể không cải cách tư pháp. Do đó, cải cách tư pháp nhằm phúc đáp yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền là một chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

Cuốn sách: “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” do Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Dung - Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Luật Hành chính - Hiến pháp, Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội làm Chủ biên.

Nội dung cuốn sách đề cập đến các nội dung sau đây:

I. Vị trí, vai trò của thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền

1. Khái niệm thể chế tư pháp

Thể chế tư pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm sự phát triển của các khuôn mẫu dân chủ và thực hiện các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Do đó, để tìm hiểu thấu đáo về tầm quan trọng của thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, trước tiên cần nhận thức đúng bản chất của nó.

Ở đây chúng tôi hiểu thể chế là hệ thống các quy tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội được sắp xếp theo một logíc nhất định và thể chế cũng được dùng để chỉ tổ chức được thiết lập và hoạt động trên cơ sở các quy tắc đó.

Dưới góc độ của quyền lực nhà nước, thể chế có thể được phân ra thành thể chế lập pháp, thể chế hành pháp và thể chế tư pháp.

Theo quan niệm phổ biến, quyền lực nhà nước là chỉnh thể thống nhất của các quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Quyền lập pháp là quyền đặt ra các quy tắc chung làm khuôn mẫu hành vi cho các thành viên của một quốc gia. Nhưng quyền lập pháp mới thể hiện ý chí của nhà làm luật. Để cho ý chí đó, luật đó được hiện thực hóa trong đời sống xã hội cần phải có quyền lực thứ hai là quyền hành pháp.

Quyền hành pháp là tổ chức đời sống theo pháp luật. Tuy nhiên, điều đó cũng chưa bảo đảm cho việc hoàn chỉnh quá trình triển khai quyền lực nhà nước. Khi có luật và cơ chế đưa pháp luật vào đời sống xã hội, nếu các chủ thể tự nguyện thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình thì pháp luật coi như đã được thực thi. Nhưng là trong xã hội có tình trạng hành vi của các chủ thể không đáp ứng được yêu cầu của pháp luật, vi phạm hoặc ngăn cản chủ thể khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Khi đó cần phải có một lĩnh vực thứ ba của Nhà nước để phân xử, phán xét về tính đúng đắn, tính hợp pháp của hành vi chủ thể pháp luật. “Khi một cơ quan quyền lực ra một quyết định mang tính áp dụng và thi hành pháp luật hay một công dân hay tập thể thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ thể, đều có nhu cầu phân xử, phán xét về tính đúng đắn, tính hợp pháp của một quyết định, một việc làm”.  

Lĩnh vực thứ ba ở đây là quyền tư pháp.

Theo Từ điển Hán việt của Đào Duy Anh, tư pháp được hiểu là việc “pháp đình y theo pháp luật mà xét định các việc ở trong phạm vi pháp luật”.

Trong từ điển Websters New Word Dictionary, tư pháp (justice) được lý giải là “việc sử dụng quyền lực bảo vệ những gì đúng đắn, công bằng hay hợp pháp”.

Nói đến tư pháp là nói đến công lý, là việc phân xử và phán xét các tranh chấp trong nhân dân hợp với pháp luật và không công bằng.

Tóm lại, có thể hiểu tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật.

Như vậy, nói đến tư pháp là nói đến hoạt động xét xử. Quyền tư pháp, mặc dù cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp hợp thành chỉnh thể quyền lực nhà nước thống nhất, nhưng có những đặc điểm riêng do bản chất của hoạt động tư pháp quy định.

Hoạt động tư pháp là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước để phán quyết. Do đó, các phán quyết của các cơ quan tư pháp được bảo đảm thi hành bởi sự cưỡng chế của Nhà nước. Phán quyết của Tòa án, bất kể là Tòa án địa phương hay Tòa án trung ương đều nhân danh quyền lực nhà nước. Không một cơ quan, một tổ chức hay một cá nhân nào được kết tội một công dân của Nhà nước, ngoại trừ Tòa án. Nhà nước cũng không cho phép công dân tự xử mình. Chỉ có Tòa án mới có quyền nhân danh Nhà nước phán xét một người có tội hay không có tội. Một nguyên tắc được thừa nhận chung của nền văn minh pháp lý nhân loại là: Không có ai bị coi là có tội cũng như phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Phán quyết của Tòa án có hiệu lực bắt buộc. Mọi chủ thể liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành phán quyết của Tòa án. Không một cơ quan, tổ chức hay một cá nhân nào có quyền sửa phán quyết của Tòa án.

Khác với lập pháp và hành pháp, hoạt động tư pháp không những nhân danh Nhà nước, mà còn nhân danh công lý. Tư pháp không chỉ phán xét tính hợp pháp mà còn cả tính đúng đắn của hành vi. Vì vậy, chủ thể của hoạt động tư pháp không chỉ căn cứ vào pháp luật mà còn căn cứ vào công lý, nhất là đối với các vụ án hình sự. Khi đó, tư pháp chỉ nhân danh Nhà nước thì không đúng với bản chất của hoạt động tư pháp, sẽ có sự thiên lệch, cho nên Tòa án còn phải nhân danh công lý. Trong nhiều trường hợp nhân danh Nhà nước cũng là nhân danh công lý.     

Hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử. Đây là sự phán quyết của cơ quan thay mặt Nhà nước thực hiện. Do vậy, nó không phải là hoạt động phán quyết của cấp trên đối với cấp dưới trong quản lý hành chính và càng không phải là hoạt động trung gian hòa giải và dàn xếp là đặc trưng trong lĩnh vực quan hệ hợp đồng kinh tế. Đây là sự khác nhau giữa hoạt động trọng tài kinh tế trước đây với hoạt động xét xử của Tòa án kinh tế ngày nay hay hoạt động dàn xếp, hòa giải của tổ hòa giải ở cơ sở, các tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân. Mặc dù trong quá trình xét xử có trình tự hòa giải và thực chất hòa giải này cũng có mục đích như vậy, nhưng không thể gọi đó là hoạt động xét xử, mà chỉ gắn với xét xử, liên quan chặt chẽ với hoạt động xét xử.

Hoạt động tư pháp là hoạt động phát sinh trên cơ sở sự tranh tụng giữa các bên có lợi ích khác nhau. Sự tranh tụng này có ít nhất từ hai chủ thể trở lên và các chủ thể này có vị trí độc lập với nhau về lợi ích. Ví dụ: Trong tranh tụng dân sự có bên nguyên đơn và bên bị đơn, trong hình sự có bên buộc tội và bên gỡ tội.

Mặc dù hoạt động của Trọng tài kinh tế trước đây cũng là hoạt động có tính phán xét, nhưng không phải là hoạt xét xử (tư pháp) vì tranh chấp này thuộc Nhà nước. Luật công ty, doanh nghiệp ra đời thể hiện tính độc lập giữa các pháp nhân. Do vậy, khi có sự tranh tụng của các công ty, doanh nghiệp có vị trí độc lập về lợi ích, đòi hỏi phải có cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước phán quyết là điều kiện thúc đẩy cho sự ra đời Tòa án kinh tế, thay thế trọng tài kinh tế. Sự tranh tụng này phải dựa trên những thủ tục nhất định gọi là “tố tụng” và những lĩnh vực tranh tụng khác nhau thì có “tố tụng” khác nhau như: “Tố tụng hình sự”, “tố tụng dân sự”, “tố tụng kinh tế”…

Tư pháp là hoạt động bảo vệ pháp luật. Hoạt động tư pháp được tiến hành trên cơ sở pháp luật, không thể vượt quá giới hạn, phạm vi luật định. Do đó, thông qua hoạt động tư pháp, hoạt động phán xét và phân xử (xét xử), mục đích và ý nghĩa của quy phạm pháp luật được đảm bảo thực hiện. Hơn nữa, khi có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật, tư pháp có ý nghĩa khôi phục giá trị của các quy định pháp luật đó. Ngoài ra, tư pháp còn bảo vệ pháp luật bằng việc góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Thông qua thực tiễn xét xử thấy được hiệu quả của pháp luật và trên cơ sở đó có những hướng hoàn thiện.  

Tư pháp là hoạt động giải thích luật, có tính sáng tạo cao. Quyền lập pháp được thực hiện trên cơ sở các quan hệ xã hội tương đối ổn định, nhưng khi pháp luật áp dụng vào cuộc sống thì thấy phát sinh những quan hệ xã hội cụ thể với sự biểu hiện đa dạng, phong phú. Khi đó, tư pháp phải tiến hành giải thích pháp luật trong những tình huống cụ thể. Người ta gọi quyền tư pháp là quyền “nói ra luật”. Để có thể nói ra luật trong những trường hợp cụ thể, tư pháp đòi hỏi phải có tính sáng tạo cao. Các quy phạm pháp luật do có tính khái quát cao nên không phải lúc nào cũng có nghĩa minh thị, nhiều khi không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Khi đó, những người tiến hành hoạt động tư pháp, cần phải lựa chọn phương pháp giải thích tối ưu. Hơn nữa, luật không thể dự kiến được mọi tình huống xảy trong xã hội nên có tình trạng “lỗ hổng” pháp luật. Trong trường hợp này, những người tiến hành hoạt động tư pháp không thể từ chối xét xử vì lý do không có luật, mà “phải tìm ra, xây dựng nên một giải pháp pháp lý bằng cách dựa vào phong tục cổ truyền, tài liệu soạn thảo các văn kiện luật và nhất là những nguyên tắc tổng quát của pháp luật”.

Ngoài ra, trong hệ thống pháp luật, nhiều khi xảy ra sự xung đột giữa các quy phạm pháp luật. Với trường hợp này, người thực hiện quyền tư pháp phải giải thích luật để lựa chọn quy phạm được áp dụng, căn cứ vào hiệu lực, thời gian ban hành, tính chất thuộc luật chung hay chuyên ngành của quy phạm pháp luật.

2. Tòa án - một thể chế tư pháp độc lập trong hệ thống bộ máy nhà nước

Trong các xã hội tiền tư bản, với hình thức chính thể quân chủ chuyên chế, quyền lực nhà nước tập trung trong tay nhà vua. Vua là chủ thể nắm giữ cả ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Khi nguyên tắc tập quyền được áp dụng một cách triệt để, nhà vua đích thân xét xử các tranh chấp trong nhân dân, trực tiếp trừng phạt những hành vi bị coi là tôi phạm, việc này có thể diễn ra tại cung điện nhà vua. Cùng với sự phát triển của xã hội, do nhu cầu phân công giải quyết các công việc của Nhà nước, nhà vua đã chuyển một phần quyền tư pháp cho quan lại từ Trung ương xuống địa phương thực hiện. Tuy nhiên, các quan lại đó đồng thời cũng là những quan lại hành chính. Bàn về tư pháp Việt Nam trước thời Pháp thuộc, Vũ Quốc Thông viết: “Ta không nhận thấy một ngạch thẩm phán quan riêng biệt có nhiệm vụ trông nom công việc hình án. Các vị quan trông coi công việc kiện tụng tại các địa phương trong nước đều phụ trách đồng thời cả công việc hành chính. Thoảng hoặc có các vị quan chuyên về công việc án từ chăng nữa, ta cũng không nhận thấy một thủ tục đặc biệt trong việc bổ nhiệm, thưởng phạt hay thuyên chuyển các vị này. Các vị này cũng không được hưởng đặc quyền gì khác các vị quan chuyên coi công việc cai trị”.

Trong các xã hội tiền tư bản quyền tư pháp chưa tách khỏi quyền lập pháp và hành pháp. Tư pháp chưa tách thành một hệ thống độc lập.

Nhằm mục đích hạn chế quyền lực vô hạn định của nhà vua, đồng thời cũng là mục tiêu của cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ chế độ phong kiến đã lỗi thời, các học giả tư sản đề nghị tách hoạt động thực hiện các văn bản pháp luật và hoạt động xét xử các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật ra khỏi hoạt động ban hành các văn bản pháp luật. Đó là tư tưởng của các nhà triết học, xã hội học và luật học của thế kỷ 17-18, mà đại diện là Giôn-Loce, Mông-tek-ki-ơ… Giôn-Loce, nhà triết học người Anh phân hoạt động Nhà nước thành ba nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và bang giao quốc tế. Mông-tek-ki-ơ thì lại chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Tư tưởng phân chia quyền lực của Mông-tek-ki-ơ đã trở thành hạt nhân của học thuyết “Tam quyền phân lập”. Trong tác phẩm “Tinh thần luật pháp”, Mông-tek-ki-ơ viết: “Khi quyền lập pháp được sáp nhập với quyền hành pháp và tập trung vào trong một người hay một tập đoàn, thì sẽ không có tự do được. Bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà vua hay Nghị viện ấy sẽ làm những đạo luật độc đoán để thi hành một cách độc đoán. Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền lập pháp, thì sẽ không có tự do. Nếu quyền xét xử được nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức”.

Mọi thứ sẽ bị biến mất nếu chính một người, hay chính một tập đoàn các thân hào hay các quý tộc hay bình dân hành sự cả ba quyền: quyền làm luật, quyền thi hành các quyết nghị chung và quyền xét xử các tội phạm hay các vụ tranh chấp giữa các tư nhân.

Trong xã hội hiện đại, các Nhà nước đều thừa nhận sự tách biệt của quyền tư pháp khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp; đồng thời, thiết lập một hệ thống cơ quan độc lập thực hiện quyền tư pháp, được gọi là Tòa án. Thuật ngữ “Tòa án” theo tiếng Latinh là Forum, nghĩa là nơi công đường, nơi hoạt động của cộng đồng được tiến hành. Theo nghĩa đó, từ khi có Nhà nước, có hoạt động xét xử, thì đã có Tòa án. Nhưng, Tòa án với cách hiểu như hiện nay là một hệ thống cơ quan độc lập thực hiện quyền tư pháp, thì chỉ có trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa.

Phải nói một cách công bằng rằng, chế độ tư bản nhất là trong thời kỳ cách mạng của nó, đã bỏ rất nhiều công sức vào việc đấu tranh giành độc lập cho hoạt động của Tòa án. Sự độc lập của Tòa án khỏi lập pháp và hành pháp là một trong những yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm quyền bình đẳng, quyền tự nhiên của con người, và nhất là trong việc chống lại tình trạng chuyên chế, tham nhũng, lợi dụng quyền lực của những nhà cầm quyền. Vì đam mê quyền lực, vì vụ lợi mà nhờ chuyên chế xâm phạm đến quyền tự do, bình đẳng, quyền tự nhiên của quần chúng nhân dân lao động.

Tuy vậy, vị trí, vai trò của Tòa án cũng rất phụ thuộc vào quan điểm tư tưởng chỉ đạo của giai cấp cầm quyền trong Nhà nước tư sản. Nếu như ở Anh và ở Pháp, vì lý do lịch sử và hệ tư tưởng, nguyên tắc phân quyền trong bộ máy nhà nước không rõ rệt, trong đó, ưu thế của Nghị viện là lấn át so với ngành tư pháp, thì vai trò của bộ máy tư pháp ở Mỹ lại hoàn toàn khác. Sự tiến hóa và đặc trưng của bộ máy tư pháp Mỹ đã làm cho bản đồ quyền lực ở Mỹ được phân biệt một cách rõ rệt hơn, gần đúng với học thuyết phân chia quyền lực của Mông-tek-ki-ơ. Ngay từ thời mới thành lập ra Nhà nước Hợp chủng Mỹ châu (hơn 200 năm về trước) cùng với quan niệm về tính tối cao của Hiến pháp, người Mỹ đã đề cao vai trò siêu phàm của các Tòa án trong tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước của mình. Những tư tưởng đó là rất xa lạ với tập quán của Châu Âu lục địa và kể cả với đất nước từng là mẫu quốc của họ, mà cho tới những năm 80 của thế kỷ mới đây các nước Châu Âu mới bừng tỉnh nhận ra vai trò của Tòa án.

Đối tượng của hoạt động xét xử theo sự phát triển của dân chủ tư sản được mở rộng theo thời gian. Thuở ban đầu hoạt động xét xử của Tòa án chỉ được áp dụng cho các thần dân có những hành vi vi phạm pháp luật của Nhà nước do nhà vua và sau này là các cơ quan lập pháp đặt ra. Lúc bấy giờ, một quan điểm cổ xưa vẫn còn ngự trị: “Chỉ có các thần dân (dân đen) mới có các hành vi phạm pháp. Còn ngược lại, những kẻ áo dài, mũ cao thì hoạt động của họ là những hoạt động mẫu mực không bao giờ có hành vi vi phạm pháp luật”. Đây cũng là những lý do giải thích những quyền miễn trừ tư pháp của các quan lại cao cấp thời bấy giờ. Dần dần, những quyền miễn trừ trở thành những đặc ân cho họ, tiêu biểu nhất là quyền không chịu trách nhiệm của nhà vua – nhà vua không phải chịu bất kỳ một trách nhiệm nào về những hành vi vi phạm pháp luật của mình. Bởi vì, họ cho rằng là vua thì không bao giờ làm sai. Nhưng càng về sau này, các quan chức cũng phải chịu trách nhiệm vì những hoạt động vi phạm pháp luật của mình và cũng phải đứng trước vành móng ngựa của Tòa án, chịu sự phán quyết của Tòa án tương xứng với những hành vi vi phạm pháp luật của họ gây ra.

Cũng tương tụ như vấn đề nêu trên, thuở ban đầu người ta cũng chỉ tính đến vấn đề vi phạm các đạo luật thường và chưa nghĩ đến việc vi phạm Hiến pháp.

Về vấn đề này ở Mỹ, David Cusman Coyle viết: “Trong buổi ban đầu của nền Cộng hòa, tòa không phải trực tiếp đương đầu với vấn đề phải làm gì khi chính quyền vi phạm Hiến pháp. Hiến pháp đã được chấp thuận như “luật pháp tối thượng của đất nước”. Và bất cứ một hành động nào của Quốc hội hay Tổng thống vi phạm Hiến pháp thì theo lý thuyết, đó không phải là lập pháp.

Việc xét xử của Tòa án không chỉ bao hàm các hoạt động thi hành luật, mà với sự phát triển ngày càng cao của dân chủ, Tòa án còn xem xét cả những hoạt động ban hành các văn bản luật. Trên thực tế, các Tòa án liên bang đã dần dần thực hiện một sự kiểm soát hạn chế, nhưng quan trọng đối với tất cả các cơ quan chính quyền khác bằng quyền xét tính hợp hiến của các đạo luật và các văn kiện chính thức khác khi chúng còn đang có thời kỳ tranh chấp”

Cùng với sự phát triển của Nhà nước và pháp luật, hoạt động của Nhà nước ngày càng can thiệp sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc xét xử của Tòa án càng mở rộng sang các lĩnh vực khác nhau, không chỉ dành riêng cho lĩnh vực tội phạm. Các lĩnh vực tranh chấp khác về quyền lợi và trách nhiệm cũng được chuyển sang cho Tòa án xét xử. Nhu cầu được sống trong một xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái đang trở nên quan trọng thực sự đối với mọi ngưởi. Để đảm bảo cho những yêu cầu này, Tòa án không chỉ có những Tòa án hình sự để xét xử những hành vi thuộc về tội phạm, mà còn có những Tòa án khác như tòa dân, tòa điền địa, tòa thương mại, tòa hành chính, Tòa án nhà phố, Tòa án Hiến pháp, xét xử các hành vi vi phạm pháp luật khác trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội… Hoạt động của những Tòa án không chỉ là xét xử những vụ việc vi phạm pháp luật, mà còn có những phán quyết để loại trừ sự tranh chấp quyền lợi giữa các bên tham gia vào các mối quan hệ pháp luật.

Cho đến nay, cuộc đấu tranh để cho hoạt động của Tòa án hoàn toàn độc lập trước hoạt động lập pháp và hành pháp vẫn còn đang tiếp diễn, mặc dù như trên đã nêu, vấn đề này được đặt ra trong thời kỳ của cách mạng tư sản. Giải quyết vấn đề này thế giới tư sản đã vấp phải không ít những khó khăn. Ví dụ như trong việc nêu cao vai trò độc lập xét xử của Tòa án sẽ gặp phải mâu thuẫn với chủ quyền nhân dân. Ở Mỹ, để đảm bảo nguyên tắc Tòa án độc lập, pháp luật Mỹ quy định tất cả các thẩm phán đều do Tổng thống liên bang hoặc do Thống đốc các bang bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời. Sau khi đã bổ nhiệm, với nhiệm kỳ lâu dài sẽ tạo điều kiện bảo đảm cho các thẩm phán độc lập khi xét xử, chỉ phụ thuộc vào pháp luật. Ngoài điều kiện đảm bảo nêu trên, các thẩm phán còn được hưởng một khoản lương tương đối cao so với các quan chức nhà nước khác.

Chính hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật của các thẩm phán nhằm mục đích bảo đảm quyền con người của mọi công dân, quyền bình đẳng của con người trước pháp luật, tránh mọi sự lợi dụng chức quyền mà đàn áp dân chúng. Trong hoạt động xét xử của mình, các thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc xét xử được quy định rõ ràng và chặt chẽ trong luật tố tụng của mỗi quốc gia cũng là để nhằm mục đích bảo vệ quyền con người của công dân, nhất là việc bảo vệ công lý cho xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tránh mọi sự lợi dụng quyền lực của chính các thẩm phán, cũng như để cho chính thẩm phán tránh được mọi áp lực từ phía các quan chức nhà nước. Những nguyên tắc xét xử đó gọi là thủ tục tố tụng. Việc sử dụng các nguyên tắc này đã tạo thành hai hình thức tổ chức và thực hiện quyền tư pháp khác nhau trên thế giới. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa coi trọng luật nội dung hơn luật tố tụng (hình thức). Còn hệ thống pháp luật Anh – Mỹ thì ngược lại. Nói chung, mỗi loại đều có ưu thế của mình, càng ngày càng được xích lại gần nhau hơn.

Ngoài những nguyên tắc trên, hoạt động của Tòa án trong những thế kỷ qua kể từ khi có cách mạng tư sản, còn hình thành nhiều nguyên tắc khác kèm theo với mục đích càng ngày càng phải đảm bảo tính công bằng của nền công lý hiện đại. Đó cũng là giá trị của nền văn minh thế giới. Cụ thể gồm có những nguyên tắc cơ bản sau đây:

+ Nguyên tắc tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử

+ Nguyên tắc chuyên môn hóa tổ chức xét xử

+ Nguyên tắc thẩm phán bổ nhiệm

+ Nguyên tắc hai cấp xét xử

+ Nguyên tắc xét xử có đại diện nhân dân tham gia

+ Nguyên tắc xét xử tập thể

+ Nguyên tắc xét xử công khai

+ Nguyên tắc bình đẳng của mọi tổ chức và công dân trước pháp luật

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo

+ Nguyên tắc bảo đảm cho người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án.

3. Thể chế tư pháp với việc thực hiện các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền

Thể chế tư pháp là tổng thể các quy tắc liên quan đến hoạt động xét xử.

Thể chế tư pháp là cơ quan được tổ chức và hoạt động theo các quy tắc đó. Như vậy nói đến thể chế tư pháp là nói đến Tòa án.

Nhà nước pháp quyền là một cách thức tổ chức quyền lực nhà nước phúc đáp một cách đầy đủ nhất các nhu cầu dân chủ, và đang là một xu hướng tất yếu của quá trình chính trị hiện đại. Để thấy được vị trí, vai trò của thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, trước hết cần tìm hiểu các quan điểm về những dấu hiệu đặc trưng của Nhà nước pháp quyền.

Theo A.I. Kôvalencô, Nhà nước pháp quyền có các dấu hiệu là:

- Dựa trên tính tối cao của luật;

- Đòi hỏi phải có sự chấp hành và sự tuân thủ thường xuyên của pháp luật của tất cả các công dân, những người có chức vụ, các cơ quan và tổ chức;

- Quy định trách nhiệm tương hỗ của công dân và Nhà nước trong phạm vi của pháp luật hiện hành;

- Đảm bảo các quyền và tự do của công dân.

V.M. Xavitxki chỉ ra sáu đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền là:

- Sự ngự trị của pháp luật;

- Sự tối cao của luật;

- Con người là giá trị cao nhất;

- Sự thừa nhận các quyền không thể bị tước đoạt của con người;

- Sự phân công quyền lực với mục đích hình thành cơ chế kìm hãm và đối trọng;

- Tòa án là người bảo đảm cao nhất các quyền của cá nhân.

 Ibrahim Shihata cho rằng, trong khuôn khổ của luật hiến pháp hiện đại thì Nhà nước pháp quyền được xem như những nguyên tắc là quyền lực chính quyền phải tuân thủ pháp luật; các Tòa án độc lập; lập pháp rõ ràng, minh bạch; và xem lại bằng Tòa án về tính hợp hiến của pháp luật và những quy phạm khác ở thứ bậc thấp hơn.

Trong nhiều quan điểm về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, có quan điểm chỉ rõ vai trò của tư pháp, có quan điểm không chỉ ra. Chúng tôi cho rằng, nói đến Nhà nước pháp quyền là phải nói đến sự đề cao vai trò của tư pháp. Hiệu quả, hiệu lực của thể chế tư pháp là một tiêu chí để đánh giá mức độ thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Bất cứ Nhà nước nào muốn tổ chức theo Nhà nước pháp quyền cũng phải quan tâm hàng đầu đến thể chế tư pháp. Có thể nói rằng, dù người ta có chỉ ra sáu hay bảy… đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, thì thể chế tư pháp cũng có vai trò đảm bảo thực hiện tất cả các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền ở mức độ này hay mức độ khác. Nếu xem vai trò của thể chế tư pháp như một trong những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, thì đó chính là đặc trưng có ý nghĩa đảm bảo thực hiện các đặc trưng khác của Nhà nước pháp quyền. Điều này xuất phát từ bản chất của Nhà nước pháp quyền và bản chất của thể chế tư pháp. Nhà nước pháp quyền đề cao vai trò của pháp luật trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước cũng như trong đời sống của công dân. Trong khi đó, tư pháp là hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của hành vi của các chủ thể pháp luật. Do đó, tư pháp có chức năng đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Cho nên tư pháp có vai trò đảm bảo thực hiện các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.

Trước hết, tư pháp bảo đảm nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền về tính tối cao của luật trong các lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Một nguyên tắc được thừa nhận chung và thường được ấn định trong Hiến pháp các nước là khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo luật. Luật chi phối hoạt động xét xử của Tòa án chính là luật tố tụng. Về nguyên tắc, nguồn của luật tố tụng chỉ có thể là luật, tức là các bộ luật, các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành. Chính vì việc các thẩm phán chỉ tuân theo luật, nên các thẩm phán sẽ tư chối áp dụng các văn bản dưới luật, các văn bản ngành mâu thuẫn với luật, đảm bảo cho nguyên tắc về tính tối cao của luật trong Nhà nước pháp quyền được thực hiện.

Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án với tư cách là một thể chế tư pháp có vai trò bảo đảm thực hiện các quyền dân chủ, các quyền con người. Các giá trị chung của quyền con người: sự sống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, các quyền về kinh tế, chính trị, xã hội… được Tòa án bảo đảm thông qua việc thực hiện các nguyên tắc trong hoạt động xét xử như: quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ; nguyên tắc suy đoán vô tội; quyền bào chữa của bị can, bị cáo; quyền bất khả xâm phạm cá nhân; quyền bất khả xâm phạm đời tư… Tư pháp, như vậy, phúc đáp được yêu cầu của Nhà nước pháp quyền về dân chủ, nhân quyền. Có thể nói rằng mức độ dân chủ của một xã hội được đo bằng hiệu quả xét xử của Tòa án. Thông qua việc phán xét về tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi của các chủ thể pháp luật, Tòa án duy trì công lý trong xã hội, kiểm soát xã hội trong vòng trật tư, bảo đảm cuộc sống bình yên cho nhân dân. Đó là một môi trường xã hội phù hợp cho sự tồn tại của Nhà nước pháp quyền.

Tư pháp cũng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, đảm bảo sự thực hiện quyền lực nhà nước trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo sự phân công quyền lực của Hiến pháp. Tư  pháp thực sự có vai trò này khi cùng với sự phát triển của dân chủ, cánh tay của nhánh quyền lực tư pháp vươn tới tài phán về hành vi của lập pháp và hành pháp. Như đã nói, cùng với sự phát triển của dân chủ, Tòa án còn xét xử cả các quan chức hành pháp, thậm chí cả Tổng thống trong chính thể Cộng hòa Tổng thống. Việc xét xử của tư pháp đối với hành pháp để đảm bảo cho hành pháp thực thi quyền lực của mình trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Có nhiều cách khác nhau để kiểm soát tính hợp pháp của các hành vi hành chính, nhưng sự kiểm soát bằng Tòa án là hiệu quả nhất. Sự kiểm soát có hiệu lực nhất đối với hành vi hành chính là tài phán hành chính; là công cụ có hiệu lực nhất thực hiện nguyên tắc của Nhà nước dân chủ và pháp quyền, bảo vệ quyền con người và quyền công dân, phòng chống lại bệnh quan liêu, lạm quyền của hành chính.

Tòa án cũng xét xử cả hành vi của Quốc hội (cơ quan lập pháp), đảm bảo tính hợp hiến của các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành. Sự tài phán của thể chế tư pháp đối với hành vi của lập pháp và hành pháp có ý nghĩa kiểm soát tính hợp pháp, hợp hiến hành vi của chính quyền - một yêu cầu chủ yếu của Nhà nước pháp quyền. 

II. Thể chế tư pháp ở một số quốc gia (các loại hình thể chế tư pháp)

Việc tổ chức và hoạt động của Tòa án thể hiện tính đa dạng khác nhau của các Nhà nước, nhưng giữa chúng có những điểm rất chung thể hiện tính quy luật chung của hoạt động xét xử.

Hoạt động của Tòa án, một trong ba nhánh quyền lực của Nhà nước tư sản, cũng giống như các hoạt động của hành pháp và lập pháp của Nhà nước, phải phản ảnh được chủ quyền của quốc gia, nên quyết định của Tòa án đều phải có hiệu lực trên toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Hoạt động đảm bảo công lý đó phải bao quát hết toàn bộ các vùng của lãnh thổ và các vùng dân cư của quốc gia, với mục đích làm cho việc thi hành và áp dụng pháp luật phải thống nhất trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Việc thành lập các hoại hình Tòa án thuộc thẩm quyền của cơ quan lập pháp, cơ quan quyền lực đại diện, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Điều này có hàm nghĩa việc thành lập ra một loại hình Tòa án không khác nào như việc ban hành một đạo luật phải do cơ quan lập pháp thực hiện. Các cơ quan hành pháp không được tự tiện thành lập ra một loại Tòa án để tự bảo vệ lấy quyền lợi của mình, mà quay trở lại trấn áp dân chúng.

Hoạt động của Tòa án thường được phân chia theo các cấp xét xử: cấp sơ thẩm, phúc thẩm và ngoài ra còn có thủ tục giám đốc thẩm. Một lần xử đi, một lần xử lại và một lần giám sát việc xét xử của hai lần trước. Các Tòa án cấp sơ thẩm có quyền xét xử các vụ việc ít quan trọng. Các Tòa án phúc thẩm có quyền phúc thẩm các bản án, quyết định của các Tòa án cấp sơ thẩm và xét xử các vụ việc quan trọng. Hoạt động của hai loại Tòa án này tạo thành hai cấp xét xử chính trong hoạt động của Tòa án hiện nay. Với hoạt động của hai cấp Tòa án này, mọi vụ việc tranh chấp đến Tòa án đều được giải quyết hai lần nếu như có kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định của lần xét xử sơ thẩm. Tức là xét xử đi và xét xử lại y như thế ở một Tòa án khác cũng chính vụ việc đó, chỉ trừ trường hợp các quyết định của Tòa án lần xét xử thứ nhất không bị các bên kháng cáo hoặc bị kháng nghị. Cuối cùng là Tòa án tối cao, Tòa án tối cao là cấp xét xử cuối cùng, có quyền phúc thẩm và giám đốc thẩm các vụ việc đã được các Tòa án cấp dưới xét xử. Các quyết định của Tòa án tối cao có hiệu lực pháp lý cuối cùng không được kháng nghị hoặc kháng cáo.

Khi xét xử, các thẩm phán của Tòa án cấp dưới không chịu sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên. Các bản án, quyết định phán xét sai, sẽ được xem xét lại theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, dân sự…

Những nét chung nhất về Tòa án và hoạt động của nó là như vậy. Nhưng đi vào chi tiết việc tổ chức và hoạt động của các Tòa án ở những nước khác nhau có những điểm khác nhau. Tập hợp những điểm khác nhau tạo nên một số mô hình của Tòa án như sau:

Thứ nhất, căn cứ vào việc phân loại các đối tượng cần phải xét xử, Tòa án được chia ra làm hai loại: Tòa án thường và Tòa án đặc biệt.

Tòa án thường là loại Tòa án chỉ được xét xử những vụ án dân sự và hình sự, bao gồm:

Tòa án cấp sơ thẩm là Tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống Tòa án của mỗi quốc gia có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tất cả những vụ án về dân sự, hình sự (tiểu hình và đại hình). Trong thành phần của Hội đồng xét xử các vụ án sơ thẩm, ngoài các thẩm phán chuyên nghiệp còn có các thành viên là các công dân được lựa chọn trực tiếp tham gia, gọi là bồi thẩm (Hội thẩm nhân dân). Những Tòa án này cũng được gọi là Tòa án bồi thẩm (Tòa án nhân dân). Sự tham gia của bồi thẩm đoàn (Hội thẩm nhân dân) có tác dụng: sự sai trái của vụ việc không những chỉ được nhìn nhận dưới góc độ chuyên môn của các nhà luật học, mà cần phải được xác nhận bằng các công dân bình thường khác. Bồi thẩm (Hội thẩm) được tham gia khi Tòa án xét xử các vụ án hình sự, dân sự quan trọng. Các bồi thẩm này sẽ giúp cho Tòa án xem xét các chứng cứ có trở thành tội phạm hoặc không có tội phạm. Còn trong các vụ án dân sự, thì xác định các sự kiện là có thật hay không. Còn mức hình phạt, hay mức bồi thường phải do các thẩm phán quyết định.

Tòa án phúc thẩm hay còn được gọi là Tòa án thượng thẩm có quyền xét lại bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm nếu có kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp khác không có kháng nghị, không có kháng cáo, thì bản án, quyết định của các Tòa án sơ thẩm có hiệu lực thi hành.

Tòa án Tối cao hay còn được gọi là Tòa phá án có thẩm quyền xét xử các bản án của các Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị của các cơ quan có thẩm quyền. Khi hủy án án chung thẩm, tòa phá án sẽ giao lại cho Tòa án cấp dưới xét xử lại.

Các loại Tòa án đặc biệt gồm có: Tòa án lao động; Tòa án quân sự; Tòa án vị thành niên; Tòa án hành chính… Những loại Tòa án này thường được thành lập vào những thời kỳ sau này cùng với việc ngày càng mở rộng các đối tượng cần phải xét xử từ phía Tòa án.

Do tính chất phức tạp của nhiều vụ việc, đòi hỏi việc tài phán giải quyết các tranh chấp phải có kiến thức chuyên môn khác nhau, cũng như các yêu cầu của các công việc xét xử các đối tượng khác nhau nên nhiều nước đã thành lập ra các loại Tòa án chuyên biệt: Tòa án lao động, Tòa án hành chính, Tòa án điền địa, Tòa án dành cho các vị thành niên…

Hoạt động xét xử của các Tòa án thuở ban đầu chỉ dành riêng cho các hành vi vi phạm pháp luật của các thần dân, nhưng sau này, phù hợp với xu hướng phát triển của dân chủ, Tòa án được mở rộng thẩm quyền xét xử đối với các hoạt động vi phạm pháp luật của các quan chức. Việc đấu tranh để đưa hoạt động vi phạm pháp luật của các quan chức nhà nước vào phạm vi xét xử của Tòa án không phải là việc làm đơn giản. Theo từng nước, thủ tục xét xử của Tòa án đối với các quan lại cao cấp rất khác nhau. Nhưng nói chung cho đến nay, các nước tư bản vẫn có sự ưu tiên nào đó đối với các quan chức cao cấp của mình, khi họ vi phạm pháp luật. Bên cạnh một số nước tư bản, mà ở đó các quan chức phạm tội bị xét xử như các công dân bình thường, còn rất nhiều nước xét xử hành vi phạm tội của các quan chức nhà nước cao cấp theo thủ tục ưu tiên, nhẹ nhàng hơn khi bị áp dụng các hình phạt… Phải chăng đây cũng là một trong nhiều nhân tố thể hiện quyền lợi của giai cấp thống trị. Những sự biểu hiện này, phải nói rằng chúng có nguồn gốc từ thời kỳ của chế độ phong kiến và chế độ chiếm hữu nô lệ.

Nước Đức là một nước rất khắt khe với các công dân của mình, các Bộ trưởng càng phải là những công dân gương mẫu. Mọi tội phạm cùng hình phạt mà các quan chức cao cấp có thể mắc phải đều liệt kê một cách đầy đủ trong bộ luật hình sự. Nghĩa là các quan chức cao cấp cũng bị xét xử như những công dân bình thường. Họ không có cơ may nào thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật, nếu như họ phải đứng trước vành móng ngựa, vì họ cũng bị xét xử bằng Tòa án theo hệ thống pháp luật bình thường. Nhưng ngược lại với biệt lệ nêu trên, pháp luật các nước đều dành một số những đặc quyền cho các quan chức cao cấp khi họ phạm tội.

Ở Anh quốc, tuy không có đặc ân nào so với những người dân bình thường, nhưng theo truyền thống, các quan chức cao cấp chỉ có thể chịu trách nhiệm trước Nghị viện, chứ không chịu quyền xét xử ở bất cứ Tòa án nào.

Ở Tây Ban Nha, các Bộ trưởng và quan chức cao cấp lại “chiều nhau hết mực”. Nếu mắc các tội hình sự, họ không bị xét xử ở các Tòa án bình thường, mà chỉ bị xét xử ở một Tòa án đặc biệt. Với tội trạng nghiêm trọng như phản bội tổ quốc hay làm tổn hại đến danh dự Nhà nước, một tổ chức chống tội phạm được thành lập để xem xét sự việc và chỉ có quyền khởi tố nếu được đa số của Hạ nghị viện thông qua.

Theo quan niệm truyền thống của Nhà nước tư bản, chức năng xét xử không chỉ do cơ quan Tòa án đảm nhiệm, mà còn do Nghị viện đảm nhiệm. Quan điểm này được phát triển rất rộng rãi ở thời kỳ cách mạng tư sản cũng như ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn tự do cạnh tranh. Theo quy định của Hiến pháp tư sản phần lớn Nghị viện có quyền luận tội các quan chức cao cấp nhất của Nhà nước từ hàm Bộ trưởng trở lên đến nguyên thủ quốc gia. Thủ tục xét xử ở Nghị viện được pháp luật tư sản gọi là “thủ tục đàn hạch”(Thủ tục này là thủ tục xét xử tại Quốc hội đối với các quan chức cao cấp của Nhà nước).

Ở Anh quốc, Thượng Nghị viện (Viện Đại quan) là Tòa án cao nhất, có chức năng xét xử các bản án bị kháng nghị của Tòa án tối cao và của các Tòa án cấp dưới khác bị kháng nghị. Thượng Nghị viện có trách nhiệm xét xử theo thủ tục thượng thẩm đối với các bản án hình sự đã được Tòa án tối cao xét xử chung thẩm theo đề nghị của Tổng công tố, nếu như vụ án hình sự đó có ý nghĩa toàn quốc. Việc xem xét các vụ án này do Thẩm phán-Thượng Nghị sỹ có kinh nghiệm chủ tọa. Thẩm phán này do Nữ hoàng bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng. Quyết định của Tòa án thượng thẩm là quyết định cuối cùng.

Hoạt động xét xử của Tòa án ở một số nước không những chỉ dành cho các hành vi vi phạm pháp luật của mỗi cá nhân, kể cả các quan chức cao cấp của Nhà nước như đã phân tích ở trên, mà còn được mở rộng ra cả hoạt động của các tổ chức nhà nước, kể cả cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương như Nghị viện. Đó là hoạt động xét xử các văn bản pháp luật được Nghị viện ban hành mà vi phạm những quy định của Hiến pháp. Để thực hiện hoạt động xét xử này, nhiều Hiến pháp tư sản quy định thành lập các Tòa án hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp… Mặc dù các nước thành lập loại Tòa án này với những tên gọi khác, nhưng chúng đều có chung một nhiệm vụ là xét xử các việc vi phạm Hiến pháp của các văn bản luật được Nghị viện thông qua. Thành phần của Hội đồng Hiến pháp hoặc Tòa án hiến pháp bao gồm các thẩm phán có nhiều kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hiện nay, có hai hình thức xét xử các văn bản luật vi phạm Hiến pháp: xét xử trước khi ban hành và xét xử sau khi đạo luật đã được ban hành.

Xét xử trước khi ban hành là hoạt động của các Tòa án hiến pháp (Hội đồng Hiến pháp) xem xét tính hợp hiến của các dự án luật trước khi được Nghị viện thông qua.

Ở một số nước không thành lập Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng Hiến pháp, thì chức năng này do Tòa án tối cao đảm nhiệm. Ví dụ như ở Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, quyết định của Tòa án tối cao Hợp chúng quốc Hoa kỳ là quyết định cuối cùng không thể bị xét xử ở bất kỳ một cấp nào khác.

Thứ hai, phân loại thể chế tư pháp theo hệ thống pháp luật.

Xét dưới góc độ tố tụng và hệ thống pháp luật, việc tổ chức và hoạt động tư pháp của hai hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới là Châu Âu lục địa và Ăng lê Sắc xon (còn gọi là hệ thống pháp luật Anh-Mỹ) có sự khác nhau rất lớn. Nét cơ bản nhất của sự khác nhau này ở chỗ. Nếu như của hệ thống luật văn bản (Châu Âu lục địa), tư pháp được xét xử theo thủ tục xét hỏi, thì Ăng lê Sắc xon theo thủ tục tranh tụng. Hai thủ tục này đều có chung một mục đích là đạt đến công lý của sự vụ. Nhưng cách thức và phương tiện sử dụng trong quá trình xét xử rất khác nhau.

- Nếu như ở Nhà nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, thẩm phán không được quyền sáng tạo ra pháp luật, thì ngược lại, ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ, thẩm phán lại có quyền này, nhất là các vụ việc được Tòa án tối cao xét xử;

- Nếu như ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Tòa án xét xử theo thủ tục xét hỏi, thì ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ Tòa án xét xử theo thủ tục tranh tụng. Theo thủ tục tranh tụng, vai trò của luật sư gỡ tội, bào chữa được nâng cao hơn, thẩm phán chỉ đóng vao trò như người điều khiển việc tranh tụng giữa hai vị công tố viên (buộc tội) và luật sư (gỡ tội). Nếu như ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa hồ sơ vụ án được thẩm phán nghiên cứu trước, theo nguyên tắc án tại hồ sơ, thì ở Anh-Mỹ hồ sơ lại nằm trong tay công tố viên và luật sư: công tố viên buộc tội và luật sư bào chữa.

- Nếu như ở Châu Âu lục địa, tại phiên tòa phúc thẩm, thẩm phán không những có quyền tăng hình phạt, mà còn xem xét toàn bộ nội dung vụ việc và cả luật áp dụng, thì phiên tòa phúc thẩm của hệ thống pháp luật Anh-Mỹ chỉ được xem xét luật áp dụng và chỉ được giảm hình phạt đã được tuyên của Tòa án sơ thẩm.

- Nếu như ở Châu Âu lục địa, thẩm phán cùng một lúc có thể xét xử một vụ việc có liên quan đến cả dân sự - bồi thường thiệt hại và hình sự - tội phạm, thì ở hệ thống pháp luật Anh-Mỹ, Thẩm phán xét xử vụ việc phải theo nguyên tắc hình hoãn hộ.

 Mỗi một cách thức tổ chức, hoạt động xét xử của Tòa án như trên đều có những điểm ưu và khuyết của nó. Hiện nay giữa hai hệ thống đang có sự học hỏi và trao đổi lẫn nhau, càng ngày càng tiến gần đến nhau hơn, nhằm mục đích đảm bảo công lý cho xã hội.

III. Một số vấn đề về cải cách tư pháp trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

1. Tạo lập những tiền đề cho sự độc lập của Tòa án

Từ khi có Hiến pháp năm 1946, Tòa án xét xử độc lập được thừa nhận là nguyên tắc hiến định: “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Từ đó đến nay, Tòa án Việt Nam luôn được ghi nhận là một hệ thống cơ quan độc lập với cơ quan chấp hành và điều hành; nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án liên tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp và ngày càng rõ ràng, cụ thể. Theo quy định tại Điều 100, Hiến pháp năm 1959: “Khi xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nhận thức rằng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là những người trực tiếp xét xử, chịu trách nhiệm về phán quyết của mình, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ ràng, cụ thể: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.” Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”.

Mặc dù Nhà nước xã hội chủ nghĩa áp dụng nguyên tắc thống nhất quyền lực nhưng cũng thừa nhận sự độc lập xét xử của Tòa án. Hiến pháp của Liên Xô trước đây đã khẳng định sự độc lập của Tòa án tại Điều 112. Tòa án Liên Xô cũng như Tòa án ở mọi nước dân chủ khác là những cơ quan độc lập với Ủy ban hành chính, không chịu sự chỉ huy tập thể của một hệ thống ngang nào (các điều 94, 101, 102, 117 Hiến pháp Liên Xô).

Sự độc lập của Tòa án không mâu thuẫn với nguyên tắc thống nhất quyền lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bàn về sự độc lập của tư pháp trong chế độ xã hội chủ nghĩa, ông Vũ Đình Hòe viết: “Sự phân quyền hành chính và tư pháp chỉ là sự phân quyền về phương diện chấp chính. Nó không thể lẫn lộn và không thể ngang hàng với sự phân quyền về phương diện Hiến pháp, tức là sự phân quyền giữa lập pháp và quyền chấp chính. Sự phân quyền hành chính và quyền tư pháp chỉ là sự chia quyền chấp chính ra làm hai loại: cai trị và xử án.”

Sự độc lập của Tòa án trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa với nguyên tắc thống nhất quyền lực có những điểm khác so với sự độc lập của Tòa án trong Nhà nước tư sản với nguyên tắc phân quyền. Đối với chế độ phân quyền tư sản, Tòa án có thể tài phán về hành vi của Quốc hội: như Tòa án thường ở chính thể Cộng hòa Tổng thống của Mỹ, Tòa án Hiến pháp ở các chính thể đại nghị như Liên bang Nga, Liên bang Đức, Italia… Trong các chính thể áp dụng nguyên tắc phân quyền ở Nhà nước tư sản, cấu trúc quyền lực là sự ngang bằng của các nhánh quyền lực; Tòa án ở một vị thế ngang bằng với Quốc hội, thì mới có thể tài phán về hành vi của Quốc hội. Ở các Nhà nước xã hội chủ nghĩa do áp dụng nguyên tắc thống nhất quyền lực, quyền lực nhà nước được cấu trúc theo hình chóp, Đỉnh trên cùng là Quốc hội; Tòa án ở một vị thế thấp hơn Quốc hội nên không thể tài phán về hành vi của Quốc hội. Theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, Quốc hội là đại diện tối cáo của chủ quyền nhân dân nên không thể có một cơ quan nào có thể đứng trên Quốc hội để phân xử hành vi của Quốc hội. Đây là đặc điểm của chính thể của Nhà nước ta.

Hiến pháp Việt Nam đã chính thức khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Cải cách tư pháp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Đổi mới hệ thống Tòa án được coi là khâu đột phá trong cải cách tư pháp. Như chúng ta đã biết, nhiều quan điểm về Nhà nước pháp quyền đều thừa nhận một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền là phải có một nền tư pháp độc lập. Như vậy, một khi chúng ta đã khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền thì phải có những yêu cầu về sự độc lập của Tòa án. Ông Jordan Ryan, Đại diện thường trực của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho rằng: “Tính độc lập của hệ thống Tòa án có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết về pháp quyền của mình”.

Nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án được quy định trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật khác là cơ sở pháp lý cho việc giữ gìn công lý của Tòa án trong những năm qua. Trên cơ sở đó, Tòa án đã góp phần tích cực vào việc thực thi dân chủ, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội, góp phần thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng. Tuy nhiên, hiện nay, nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án không được quán triệt một cách đầy đủ, đã có những biểu hiện vi phạm nguyên tắc này. Trong một Nhà nước pháp quyền, chúng ta phải có những cơ chế để khắc phục những sự vi phạm đó, đảm bảo cho Tòa án thực sự độc lập trong hoạt động xét xử.

- Chuyển từ tố tụng xét hỏi sang tố tụng tranh tụng

- Tăng trách nhiệm cho các thẩm phán

- Nâng cao chất lượng của đội ngũ thẩm phán

- Tăng nhiệm kỳ thẩm phán lên bảy năm

- Cần có các biện pháp bảo đảm ổn định công tác cho các thẩm phán

2. Tiến tới xác lập vai trò kiểm soát của tư pháp đối với lập pháp và hành pháp trong cải cách tư pháp ở Việt Nam

Sự kiểm soát của tư pháp đối với lập pháp và hành pháp – một tất yếu của việc tổ chức chính quyền trong Nhà nước pháp quyền

Hiện tượng quyền lực nhà nước xuất hiện kéo theo nỗi ưu tư của nhân loại về sự lạm dụng quyền lực. Vì lạm quyền là thuộc tính của quyền lực. Bertrand Russell, một học giả người Pháp nhận định: “Không ai có thể có uy quyền tuyệt đối được, cho nên suốt đời chỉ khao khát tìm quyền thế”.

Khi có quyền lực, con người thường có xu hướng lạm quyền. Đối với quyền lực nhà nước, thì nguy cơ lạm quyền lại càng cao và có thể dẫn đến hậu quả lớn đối với xã hội vì quyền lực nhà nước có tác động phổ biến, chi phối đến cả xã hội. Một nhà cách mạng Pháp đã diễn đạt ý tưởng này trong một câu nói: “Cai trị thì ngây thơ vô tội sao được”.

Dưới góc độ kinh tế, Báo cáo về tình hình phát triển thế giới năm 1997 của Ngân hàng thế giới nhận định: Độc quyền của Nhà nước về cưỡng chế, cái mang lại cho Nhà nước quyền lực can thiệp một cách có hiệu lực vào hoạt động kinh tế, cũng mang lại cho Nhà nước quyền lực can thiệp một cách độc đoán chuyên quyền.

Chính vì vậy, cùng với việc thiết lập những cơ chế để thúc đẩy quyền lực nhà nước hoạt động hiệu quả vì lợi ích chung, là các nước tìm kiếm những cơ chế để kiểm soát quyền lực nhà nước.

Vấn đề kiểm soát chính quyền được coi là vấn đề cơ bản của việc tổ chức chính quyền. Madison cho rằng: “Trong việc tạo dựng một Chính phủ được những con người quản lý để cai trị những con người khác, khó khăn lớn nhất nằm trong điều này: trước hết anh phải làm cho Chính phủ có khả năng kiểm soát những người bị cai trị; và điều tiếp theo sau là buộc Chính phủ phải tự kiểm soát mình”.

Học thuyết về Nhà nước pháp quyền sự thể hiện tập trung và sâu sắc nỗi ưu tư của nhân loại tiến bộ về sự kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể nói rằng mọi tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đều xoay quanh vấn đề kiểm soát sự lạm quyền của chính quyền để bảo vệ các quyền con người. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền là một mô hình tổ chức nhà nước chống lại sự lạm quyền của nhà nước để bảo vệ các quyền, tự do của con người.

Những lĩnh vực của quyền lực nhà nước được quan niệm phổ biến gồm có quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Trong ba nhánh quyền lực này, thì nguy cơ lạm quyền dễ rơi nhất vào những nhánh quyền lực nào? Đó chính là lập pháp và hành pháp. Tại sao lại như vậy?

Lập pháp và hành pháp là những nhánh quyền lực mạnh và do đó dễ có nguy cơ lạm quyền. Lập pháp có quyền ấn định cách hành xử của cả xã hội. Hành pháp hàng ngày, hàng giờ tác động vào đời sống của con người, hay nói như Hegel là hành pháp “quan hệ một cách trực tiếp hơn với cái đặc thù trong xã hội công dân và thực hiện lợi ích phổ biến ở bên trong những mục đích đặc thù đó”.

 Haminton nhận xét rằng: “Ngành hành pháp không những có quyền phân phối các vinh dự mà còn có quyền sử dụng vũ lực. Ngành lập pháp không những kiểm soát tài chính mà còn có quyền quy định các luật lệ chi phối sự sinh hoạt của công dân”.

Chính những ưu thế của lập pháp và hành pháp tạo cho chúng dễ có nguy cơ lạm quyền, xâm phạm đến các quyền, tự do của con người.

Trong khi đó, tư pháp là một nhánh quyền lực yếu hơn so với lập pháp, hành pháp. Haminton cũng lập luận rằng: “Ngành tư pháp, trái lại, không có quyền sử dụng vũ lực hoặc quyền kiểm soát tài chính, không có quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh của xã hội và cũng không có một quyền quyết định tích cực nào. Có thể nói rằng ngành tư pháp vừa không có lực lượng, vừa không có ý chí, mà chỉ có trí phán đoán mà thôi và cần phải dựa trên sự trợ tá của ngành hành pháp mới có thể thi hành được quyết định của trí phán đoán của mình”.

Mông-tek-ki-ơ nói rằng: “Người ta không luôn luôn nhìn thấy Tòa án trước mặt mình, nên người ta chỉ sợ cơ chế cai trị chứ không sợ các quan cai trị”.

Trong một Nhà nước pháp quyền, kiểm soát quyền lực có nghĩa là kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp các hành vi của chính quyền để chính quyền (lập pháp và hành pháp) không lạm quyền mà xâm phạm đến đời sống công dân.

Về hành pháp, một số tác giả phân thành hành pháp chính trị và hành chính công. Hành pháp chính trị bao gồm những chính khách có từ hàm Bộ trưởng trở lên và những chủ thể này có chức năng hoạch định chính sách, chỉ đạo và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật. Hành chính công, bao gồm: các công chức từ Vụ trưởng trở xuống và những chủ thể này có chức năng thực hiện chính sách, pháp luật. Ở một số nước như Đức, Thủy Điển, Phần Lan, Áo, Bồ Đào Nha, Mêhicô … sự kiểm soát hành chính công giao cho một Tòa chuyên biệt là Tòa hành chính. Đây là sự kiểm soát của tư pháp đối với hành chính.

Để phồn vinh, các nền kinh tế cần có những sắp đặt về thể chế để giải quyết các tranh chấp giữa các doanh nghiệp, công dân và Chính phủ; để làm sáng tỏ những điều còn mơ hồ trong luật pháp và những quy định được phục tùng, người ta đã nghĩ ra vô số nhưng cơ chế chính thức và không chính thức để làm điều này, nhưng chẳng có cơ chế nào quan trọng hơn hệ thống tư pháp chính thức. Chỉ riêng ngành này có quyền sử dụng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước để buộc phải đưa ra các cuộc phán xử. Và cũng chỉ có một mình nó có quyền chính thức phán quyết về sự hợp pháp của những hoạt động của ngành lập pháp và hành pháp. Mối quan hệ đặc biệt này đối với những ngành còn lại của Nhà nước đặt tư pháp vào một vị trí độc nhất để hỗ trợ cho một sự phát triển lâu bền, bằng cách buộc hai ngành khác phải chịu trách nhiệm về những quyết định của họ.

Nguyên tắc về tính tối cao của luật trong Nhà nước pháp quyền cũng góp phần tạo cho tư pháp có vị thế kiểm soát được hành vi của lập pháp và hành pháp. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có sự phân cấp hiệu lực pháp lý giữa những loại văn bản pháp luật khác nhau, theo đó, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối cao, tất cả các văn bản khác phải phù hợp với Hiến pháp và luật-sản phẩm của lập pháp. Với vai trò là người bảo vệ pháp luật, Tòa án có chức năng duy trì trật tự hiệu lực pháp lý. Tòa án có thể vô hiệu hóa những văn bản pháp luật được ban hành không đúng trật tự hiệu lực pháp lý, cụ thể: có thể hủy bỏ luật của Quốc hội vi phạm Hiến pháp, hay nghị định của Chính phủ trái với luật của Quốc hội.

Với ý nghĩa như vậy, tư pháp là một nhánh quyền lực đảm nhận chức năng kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp của chính quyền (lập pháp và hành pháp) để bảo vệ các quyền và tự do của con người. Vì vậy, có thể nói rằng, trong một trật tự Nhà nước pháp quyền, sự kiểm soát của tư pháp đối với lập pháp và hành pháp là một tất yếu của việc tổ chức chính quyền.

3. Những vấn đề đặt ra cho tiến trình cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam liên quan đến sự kiểm soát của tư pháp đối lập pháp và hành pháp.

Với định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, Việt Nam đã thiết lập một Tòa án chuyên trách để kiểm soát hành vi của hành chính công là Tòa hành chính được tổ chức từ cấp tỉnh đến trung ương. Nhưng Tòa hành chính ở nước ta hiện nay có thẩm quyền hẹp, chỉ kiểm soát được hành vi từ cấp Bộ trở xuống. Như vậy, qua đó thấy rằng còn một mảng rất lớn của quyền lực chưa được kiểm soát bởi tư pháp.

Lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay được kiểm soát như thế nào? Chúng ta chưa có cơ chế kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi lập pháp của Quốc hội. Hiến pháp Việt Nam không quy định trong trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội vi phạm hiến pháp thì xử lý như thế nào. Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì Quốc hội có quyền tự hủy bỏ luật của mình khi luật đó vi phạm hiến pháp. Điều này không nói lên sự kiểm soát hành vi của Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội. Đối với hành pháp, chúng ta có cơ chế để kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi của hành pháp. Quốc hội có quyền hủy bỏ những văn bản của Chính phủ vi phạm Hiến pháp, luật và pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vấn đề đặt ra là sẽ kiểm soát lập pháp, hành pháp bằng Tòa án theo phương thức nào?

Trước hết, chúng ta có thể thực hiện phương thức tố quyền để đi đến thành lập Tòa án hiến pháp hay không? Tòa án hiến pháp cần thiết cho một Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền. Tòa án Hiến pháp là một cơ quan tư pháp, là một định chế thực hiện việc kiểm hiến bằng con đường tư pháp theo phương thức tố quyền. Chỉ trong cơ chế Nhà nước phân quyền, khi tư pháp độc lập và ngang bằng với lập pháp thì mới có thể tổ chức một cơ quan tư pháp thực hiện chức năng tài phán về hành vi của cơ quan lập pháp. Đối với Việt Nam, tổ chức Nhà nước theo nguyên tắc thống nhất quyền lực thì khó có thể dung hợp được với một thiết chế là Tòa án hiến pháp. Vì theo nguyên tắc này, tư pháp không thể ngang hàng với lập pháp để có thể truy cứu trách nhiệm về hành vi của lập pháp. Vì vậy, có thể nói với nguyên tắc thống nhất quyền lực, chúng ta chưa thể tổ chức được Tòa án hiến pháp.

Chúng tôi cho rằng có thể áp dụng phương thức khước biện trong sự kiểm soát của tư pháp đối với lập pháp và hành pháp. Chúng ta trao cho hệ thống Tòa án thường thực hiện chức năng kiểm soát lập pháp và hành pháp theo phương thức khước biện. Theo đó, công dân trong một vụ việc cụ thể có quyền yêu cầu Tòa án kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp các văn bản pháp luật của Quốc hội, Chính phủ mà sẽ được áp dụng đối với mình. Nếu Tòa án xác định sự khước biện của đương sự là có căn cứ, thì phải từ chối áp dụng văn bản đó, sau đó kiến nghị lên cơ quan đã ban hành để có cách thức xử lý. Việc kiểm tra tư pháp đối với lập pháp và hành pháp như vậy là phù hợp với nguyên lý tổ chức chính quyền theo nguyên tắc thống nhất quyền lực Nhà nước.

Khi trao cho tư pháp quyền kiểm tra tính hợp hiến trong hành vi của lập pháp và hành pháp theo phương thức khước biện thì người dân sẽ phải viện dẫn đến Hiến pháp để bảo vệ quyền của mình và Tòa án cũng sẽ phải viện dẫn đến Hiến pháp để giải quyết vụ việc. Với việc cho phép Tòa án có quyền không áp dụng những văn bản pháp luật của lập pháp, hành pháp vi phạm Hiến pháp theo sự khước biện của người dân, người dân sẽ chủ động trực tiếp tham gia vào quy trình thực hiện Hiến pháp và Hiến pháp sẽ có hiệu lực trực tiếp. Khi đó người dân sẽ sử dụng hiến pháp như một công cụ để bảo vệ các quyền cơ bản (các quyền hiến định) của mình trước sự xâm phạm của các cơ quan công quyền. Trong Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, với sự kiểm soát của tư pháp đối với lập pháp và hành pháp được thừa nhận theo phương thức khước biện, Hiến pháp sẽ thực sự trở thành Hiến pháp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Người thực hiện: ThS. Trần Hữu Minh

 

Các bản tin trước:

Các bản tin tiếp theo: